Saturday, October 19, 2013

Chữa bệnh tiểu đường với lá Sầu đâu

Lá sầu đâu(hay còn được gọi là lá neem, lá xoan) là loại thảo mộc truyền thống dùng để chữa bệnh tiểu đường. Lá neem đã được khoa học chứng minh sự hữu hiệu trong việc phòng ngừa và chữa trị bệnh này. So sánh với các loại cây cỏ thuốc khác thì lá neem được cho là có công hiệu vượt trội. Không chỉ là nguyên liệu làm nên các món ăn ngon, sầu đâu còn được biết đến với nhiều công dụng chữa bệnh trong Đông y và Tây y. Từ xa xưa, người Ấn Độ đã dùng sầu đâu để làm thuốc hạ đường huyết, chống viêm, chống ung thư, kháng khuẩn, kháng nấm, chữa sốt rét. Ngoài ra nó còn có tác dụng chống oxy hóa tế bào và kháng các tác nhân gây đột biến gen hoặc ung thư… Đọt sầu đâu giúp làm mát gan, chống giun, trị nhức mỏi. Nước sắc của cây còn dùng để chữa viêm nha chu, viêm nướu, sâu răng, chữa viêm cơ, viêm khớp. Dùng ngoài đắp lên các vết thương do rắn – rết cắn, trĩ, bướu ác tính. Chữa bệnh tiểu đường với lá Sầu đâu Sầu đâu là vị thuốc quý chữa được nhiều bệnh Một số cách cách dùng sầu đâu để trị bệnh Bệnh tiểu đường : Mỗi ngày có thể dùng 5-10 lá tươi hoặc phơi trong mát cho hơi héo rồi đun sôi lấy nước uống mỗi ngày, nước thuốc có vị rất đắng nhưng hậu ngọt. Trị chứng ngứa âm hộ: Lấy 30g vỏ cây sầu đâu, 20g hạt tiêu, 25 lá khuynh diệp tươi, 30g lá đào tươi, 30g hoàng bá tươi, 50g vỏ rễ lựu tươi. Cho tất cả vào ấm đun sôi kỹ, bỏ bã, cho thêm băng phiến, dùng nước thuốc này xông và rửa bên ngoài âm hộ. Tuyệt đối không được uống. Trị bệnh ghẻ: Lấy 20g vỏ cây sầu đâu, 5 phân chánh tam tiền, 5 phân thạch cao sống, 1 chén rượu trắng, 200g nghệ vàng, 200g cây bông cò, 200g gừng già. Vỏ cây sầu đâu băm nhỏ, cây bông cò băm nhỏ, gừng, nghệ xắt lát. Tất cả đem giã nát, dùng vải lọc lấy nước. Chánh tam tiền và thạch cao sống tán bột mịn, trộn đều với nước thuốc đã lọc. Đổ rượu trắng vào hỗn hợp thuốc trên, sắc cho keo lại, cho vào chai lọ dùng dần. Sau khi tắm sạch, bôi thuốc này lên các nốt ghẻ, ngày bôi 2 lần sẽ cho kết quả tốt. Lưu ý: Cây sầu đâu cũng có tính độc nên khi dùng phải thận trọng. Những người tỳ vị hư yếu, phụ nữ có thai không được dùng. Các thang thuốc có sầu đâu chỉ dùng để rửa, bôi ngoài chứ không được uống.

Sunday, October 13, 2013

mua ban hat chum ngay

mua ban hat chum ngay http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6/cay_chum_ngay_vi_thuoc_quy.pdf http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 mua bán hạt chùm ngây cây chùm ngây vị thuốc quí Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271 Email : thienmy.thich@gmail.com Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree" Tiếng Ấn Độ là “ Moringa”. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt. *Lợi ích và công dụng : Chùm ngây là một trong những loài cây vô cùng hữu ích. Nó vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa làm thuốc mà lại còn là nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm. Lá của cây chùm ngây được dùng làm rau. Nó có thể ăn sống như các loài rau sống khác. Cũng có thể nghiền lá ra để làm nước sinh tố. Nếu nấu canh thì ta được món canh giống với canh rau ngót. Người già, trẻ em và người có thể trạng yếu, nếu ăn rau chùm ngây sẽ rất mau khỏe. Cần chú ý, phụ nữ có thai không nên ăn chùm ngây vì có thể bị sẩy thai. Chùm ngây còn có tác dụng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp ta hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3... Và còn rất nhiều công dụng không thể ngờ tới của chùm ngây mời anh em thao khảo trên internet *Giá trị kinh tế [LIST] • lá non 1 kg từ 70.000 - 80.000 đồng • Rễ cây 20 năm tuổi 800 - 1000 000 đồng/kg • Bột lá khô :500 - 600 000 /kg

Friday, September 6, 2013

SẦU ĐÂU, SẦU ĐÔNG, CÂY THUỐC TRỊ BÁ CHỨNG

SẦU ĐÂU, SẦU ĐÔNG, CÂY THUỐC TRỊ BÁ CHỨNG 02.01.2012 ĐỂ LẠI PHẢN HỒI Cây sầu đâu Cây sầu đâu được các nhà khảo cứu Ấn Độ và Pakistan chú ý trước tiên và rất nhiều vì nó đã được kê khai vào những môn thuốc cổ truyền các nước ấy. Có tác dụng trong lãnh vực chống viêm, kháng vi khuẩn, kích thích miễn dịch, nó được tôn vinh là “cây dược phẩm trong làng” (2). Thật ra cây sầu đâu mọc ở nhiều nơi, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác, từ châu Á qua châu Phi, đặc biệt ở Nigeria. Vào thập niên 30, máy móc phân tích chưa tinh vi, công thức các hóa chất chưa được biết rõ ràng. * * * Sương chiều phủ kín chân không, Cuối thu hoa nở sầu đông muộn màng, Lòng nghe sao quá bẻ bàng, Sợ mùa đông đến hoa tàn sầu đông. (Nguyễn Cơ – hoathonhac.blogspot.com) SẦU ĐÂU, SẦU ĐÔNG, CÂY THUỐC TRỊ BÁ CHỨNG Sầu đâu là một cây quen thuộc ở Việt Nam. Nó mọc ở ngoài Bắc cũng như ở trong Nam, trên đồi núi cùng suốt miền đồng bằng. Ông cha ta đã từng hái lá bỏ vào chum vại để trừ sâu, nấu nước tắm súc vật, sắc thuốc từ vỏ thân, vỏ rễ, hột, lá để tẩy giun, diệt trùng, chữa bệnh ngoài da hay viêm âm đạo. Tuy đã được dùng từ lâu trong hệ thống Ayurvedic bên Ấn Độ, trình bày trong các sách y khoa Phạn tự thời xưa như Susrutasanhita, được thế giới chú ý từ hơn một nửa thế kỹ nay, mãi đến gần đây nó mới được các phòng thí nghiệm, các hãng kỹ nghệ khảo cứu sâu rộng để khai thác những hoạt chất độc đáo của nó. Một số lớn luận án tiến sĩ, các văn bằng sáng chế đã nghiên cứu cặn kẽ cấu trúc, thành phần hóa học cùng những tính chất dược lý của những hoạt chất ấy. Không hiếm những bản tổng kết đăng ở các báo và những sách chuyên môn xuất bản riêng biệt gom góp những kết quả đạt được. Các nhà khảo cứu còn tổ chức nhiều hội nghị quốc gia như bên Ấn Độ hay quốc tế : Rottach Egern (1980), Rauisch Holzhausen (1983), Eschborn (1984) Sofia (1985), Nairobi (1986),… để trình bày, trao đổi, thảo luận về những cơ chế tổng hợp hay tác dụng của những hoạt chất lên các cơ quan sinh vật. Năm 1995, cả một bộ sách dày hàng trăm trang gồm hàng chục chương đi vào chi tiết của mọi lãnh vực khảo cứu (1). Trong rất lâu, vấn đề danh từ chưa được thống nhất. Tên các hóa chất được đặt ra rất hỗn độn, không theo một hệ thống hay một trật tự nào. Ở Việt Nam ta ngay cả tên cây cũng chưa được định nghĩa rõ ràng. Cuốn Tự điển Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội 1994, tr.824) chưa phân biệt cây xoan và cây sầu đâu. Ở Huế cũng như ở miền Nam tên còn được thi vị hóa thành sầu đông. « Hoa sầu đông nở trắng, Hương xuân thầm lan xa. Nghe tháng giêng Đông Hà, Lên màu hoa tím nhạt » (Võ Quê). Trong cuốn Cây thuốc Việt Nam của Viện Dược liệu, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1990, tr.97, 263), cũng như trong các cuốn Thuốc trị bệnh từ cây cỏ hoang dại của Lê Quý Ngưu và Trần Như Đức, Nxb Thuận Hóa (Huế 1995, tr.394), Les plantes médicinales au Vietnam của ACCT (Paris 1990, tr.151), cả hai tên xoan và sầu đâu (hay sầu đau) đều được đặt cho cây Melia azedarach. Xin tạm gác một bên những tên xoan rừng, sầu đâu rừng, sầu đâu cứt chuột dành cho cây Brucea javanica (Linn.) Merr. thuộc họ Thanh thất Simaroubaceae và tên sadao hay sầu đâu Thái Lan đặt cho câyAzadirachta indica siamensis. Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong cuốn Cây cỏ Việt Nam (Montréal 1992, Q.II, t.1, tr.487) sầu đâu là Azadirachta indica Juss., sầu đâu cao là Azadirachta excelsa (Jack) Jacobs, còn xoan là Melia azedarach L., xoan đào là Melia azedarach cultivar tosendam, tất cả thuộc họ Xoan Meliaceae. Trong sách Những cây thuốc thông thường, Nxb Đồng Tháp (Sa Đéc 1987, tr. 265) Võ Văn Chi cũng gọi Azadirachta indica là sầu đâu, còn thêm tên xoan đào. Sau cùng, Giáo sư Đỗ Tất Lợi trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật (Hà Nội 1986, tr.181,1147) thì cho sầu đâu là Melia azedarach, thêm vào các tên xoan trắng, xuyên luyện, khổ luyện, đốc hiên,… Sau đó ông phân biệt Melia azedarach hay Melia indica là xoan Ấn Độ, còn Melia toosendam là xoan Tứ Xuyên hay xoan Tây Bắc. Kiểm điểm những cách gọi vừa thấy, dựa lên đề nghị của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, trong khi chờ đợi ý kiến của các nhà thảo mộc, xin tạm thời thống nhất các tên : * Sầu đâu là Azadirachta indica A.Juss. Người Ấn Độ trước kia đặt tên bakayan khác với nim (hay neem ) từ chữ phạn mahanimba. Người Telugu có tên vepa. Âu Mỹ dùng danh từ china berry, china tree, neem tree hay margosa.Vì vậy hóa chất có những tên bakayanic acid, neobakayanin,… nimbin, nimbinon, nimbinal,… margosa, margocin, margoson, .. azadirachtin, azadirachtol, azadirachion,… vepaol. * Xoan hay xoan Ấn Độ là Melia azedarach Linn. Người Ấn Độ gọi nó là djharek, còn Âu Mỹ thì có tên berry tree, có khi cũng gọi china berry. * Xoan Tứ Xuyên là Melia Toosendam Sieb. et Zucc. Cây neem bên Miến Điện Cây sầu đâu được các nhà khảo cứu Ấn Độ và Pakistan chú ý trước tiên và rất nhiều vì nó đã được kê khai vào những môn thuốc cổ truyền các nước ấy. Có tác dụng trong lãnh vực chống viêm, kháng vi khuẩn, kích thích miễn dịch, nó được tôn vinh là “cây dược phẩm trong làng” (2). Thật ra cây sầu đâu mọc ở nhiều nơi, ở Việt Nam cũng như ở các nước khác, từ châu Á qua châu Phi, đặc biệt ở Nigeria. Vào thập niên 30, máy móc phân tích chưa tinh vi, công thức các hóa chất chưa được biết rõ ràng. Khảo cứu có hệ thống chỉ bắt đầu với những công tác của S. Siddiqui ở Viện Đại học Karachi (Pakistan) từ những năm đầu thập niên 40. Hoạt chất nằm trong đủ mọi bộ phận của cây, từ hoa, lá, trái, hột qua thân, nhựa, cành, rễ. Ứng dụng của chúng bao gồm các lãnh vực canh nông, y khoa và ngay cả chút ít kỹ nghệ : bảo vệ mùa màng, chữa đủ thứ bệnh, chế tạo kính men. Việc khảo cứu tính chất trừ khử sâu bệnh đã được tăng gia những năm gần đây, mỗi năm hàng chục bản báo cáo trình bày tác dụng các hoạt chất của cây lên các loài sâu bọ. Hoạt chất được chiết xuất nhiều nhất là từ trái cây, phần lớn ở những trái chín tươi. Nhiều liều thuốc dùng ngay phần chiết thô. Một số lớn hóa chất được chiết từ hột, trung bình trọng lượng chiếm 10% của trái. Nhiều nghiên cứu chỉ cách ép hột ra dầu (thường được gọi neem oil, 45%) rồi mới chiết xuất từ dầu. Dung môi thường được dùng là rượu (methanol, ethanol), aceton, ether, ether dầu hỏa, chloroform, … và nước. Cũng có phương pháp tách từ dầu ra một chất đắng vô định hình (25%) cống hiến hoá chất qua các phép rửa, lọc, làm ròng. Hóa chất quan trọng đầu tiên được chiết ra là azadirachtin hay ấn khổ luyện tử tố. J.H. Butterworth và D.E. Morgan ở Viện Đại học Keele bên Anh ngâm hột sầu đâu trong ethanol rồi dùng phép sắc ký trên alumin tách ra một chật vô định hình. Sau nhiều lần lọc qua sắc ký lớp mỏng và cho tan hòa trong carbon tetrahydrochlorid, azadirachtin kết tinh thành bột, năng suất 0,7g /kg. Nhưng muốn có azadirachtin thật ròng (hơn 99%) thì phải cho nó qua máy sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC. Azadirachtin ròng cần thiết để xác định cấu trúc của nó qua các phương pháp cọng hưởng từ hạt nhân NMR, quan tuyến X, phối ký MS, đánh dứt một cuộc thảo luận giữa K. Nakanishi, W . Kraus và H.B. Broughton trong gần 15 năm sau 1975. Ngày nay, nhiều azadirachtin đồng vị đã được chiết xuất : loại A và B có nhiều nhất, C và D chỉ có ít. Dùng phép HPLC thì đồng thời với các azadirachtin kia, những nimbin, nimbolid, ohchinolid, deacetynimbin, azadiradion, salanin, ba azadirachtin H, I, K cùng hydroxy norazadirachtin cũng được chiết ra. Sau azadirachtin, phân tử được kảo cứu cặn kẽ nhất về cấu trúc là nimbin. Azadirachtin và các hoạt chất khác của cây đã được thử nghiệm lên nhiều loại sâu bọ, từ châu chấu, bọ hung qua dế mèn, sâu đậu, sâu lúa,… Tác dụng đầu tiên của là xua đuổi hoặc ngừa ăn trước khi sâu bọ cắn vào lúa, đậu hay trái cây. Nếu lỡ ăn vào thì một loạt phản ứng khác tác dụng lên nền sinh lý thần kinh và cơ thể chúng chẳng hạn để dừng chậm hay ngăn chặn quá trình biến thái của nhộng trần. Cả bốn azadiractin đều có tác động tương tự lên sâu đậu và bọ hung. Một phần các bản báo cáo chỉ định rõ ràng các hoạt chất, một phần cho biết là một phần chiết nhưng không biết từ bộ phận nào của cây hay trình bày qua một tên thương mãi : Margocide OK, CK, Neem-Azal, RB-a, RB-b, hoặc Margosan-O, Azatin, RH-99099, Neem PTI-EC4, NSE,… Trong y khoa, nhờ cống hiến chất bổ, làm se nên vỏ cây được dùng khi buồn nôn, oẹ mửa (16), để chữa tăng tiết dạ dày, loét thực quản, loét tá tràng (24). Phần chiết của hột có tác động lên tinh trùng nên được dùng ngừa thai (19). Lá dùng để chữa bệnh vàng da, đau gan, eczema (7). Hoạt chất diệt trùng, chống viêm thường được chỉ định trong phần chiết : nimbolid, nimbidin và nimbic acid trong hột, polysaccharid, nimbionon và nimbionol trong vỏ, alkenal, methylbutenol, flavanol glycosid trong lá, amin acid trong lá và vỏ. Nimbonon và nimbinol đã được đem thử với các vi khuẩn Gram dương như Bacillus subtilis, Staphylococcus epidermicis, S. aureus, và các vi khuẩn Gram âm nhưKlebsiella ozaen cùng khác vi khuẩn S. citreus, Streptococcus lactis, Acinetobacter calcoaceticus (15). Bên phần nimbolid thì tác dụng rất mạnh lên S. aureus, S. coagulase cũng như nimbic acid lên S. aureus, B. subtilis, S. coagulase và Diphtheroidae (9). Tính chất gây kháng thể (18), chữa loét, khối u (12,18), giảm hạ đường trong máu (23)đã được đề cập đến. Một tính chất cũng khá quan trọng là diệt muỗi, chữa trị sốt rét. Chiết từ lá, isonimbocinolid đã được thử lên Aedes aegypti (11), alcan Me(CH2)nMe (n = 16,17,24,32) lên Culex pipiens fatigans (8). Chiết từ hột, dipropyl disulphid diệt muỗi Aedes aegypti. Những chất có lưu huỳnh đóng vai trò trong việc xua đuổi không những muỗi mà còn các loài sâu bọ khác như sâu thuốc lá Heliothis virescens, sâu lúa mì H. zea (14). Gedium cũng là một chất chống sốt rét hiệu nghiệm (17). Một tính chất đã từng được biết ở nước ta là dầu sầu đâu không kích thích da(20) nên phần chiết từ hoa, lá, cành, rễ đã được pha trộn với nhiều chất khác để làm thuốc bảo vệ da (4,5), xà phòng liệu pháp (21), xà phòng chữa nấm da (22). Phần chiết từ hột được dùng để chữa da đầu, bảo dưỡng tóc, phòng ngừa tóc rụng (6). Còn phần chiết từ lá, gỗ, vỏ, thân pha với ethanol 90% thì được dùng trong việc phòng ngừa và chữa trị viêm lợi, viêm khớp răng (3). Qua một lãnh vực khác, tro gỗ thân cây được dùng trong kỹ nghệ đồ gốm : nhờ kích thước đúng mức, bản chất vô định hình, do đó khả năng phản ứng lớn, người ta đã đem nó thay thế calcite trong việc chế tạo kính, men phải nung lên đến 1250 độ. Hoa sầu đâu Sau cùng, còn có một bộ phận của cây ít được nói đến là hoa. « Rồi mỗi sớm mai, khi Sầu Đông bắt đầu nở hoa đón chào một ngày mới thì cả không gian lúc ấy được bao trùm bởi một mùi hương dìu dịu làm say đắm ngất ngây lòng người. Thời gian xuất hiện và tồn tại của hoa tuy thật ngắn, chỉ thoáng chớp trong vài ngày, thì màu hoa Sầu Đông đã bước vào độ tàn và chỉ cần một làn gió nhẹ thoảng qua thôi, là rồi những bông hoa cánh mỏng lại bắt đầu rụng rơi lả tả, vương đầy cả khắp những lối đi về. Cũng mãi chung thủy với sắc màu tim tím, biêng biếc ấy, nhưng khơi gợi biết bao nỗi niềm cho lòng xót xa bùi ngùi thương cảm, như hoài mong tiếc nuối những gì của ngày đã qua, đã rời xa mãi mà không bao giờ quay trở lại. Nhưng thật kỳ lạ thay, mùi hương dìu dịu ngọt lịm của hoa Sầu Đông cứ thơm mãi, vương vấn lên làn tóc của người con gái năm nào, níu kéo bước chân ai mỗi khi ngơ ngẩn, rồi lặng yên mãi cứ đứng ngắm nhìn. Xa quê thì lòng người luôn nhớ về nơi chốn cũ. Nơi Sài thành phố thị phồn hoa, tìm mãi cũng đâu thấy được loài hoa này… Để khi Thu sang Đông qua và Xuân tới rồi Hè về. Cứ chập chùng mê mãi trong qui luật vần xoay của tạo hóa, của đất trời và của cả dòng thời gian trôi. Bỗng nhớ về màu hoa tím biếc thuở nào của năm cũ. Biết tìm đâu màu tim tím của hoa sầu đâu? Bất chợt nhớ, bất chợt mong, Sầu Đông mênh mông trong cõi lòng…» (Thanh Ly). Hoa đẹp như vậy nhưng không chỉ để ngắm. Nó đóng một vai trò quan trọng trong ẩm thực. Nụ hoa cũng như lá non được dùng để làm rau ăn với thịt heo ba chỉ, tôm thẻ luột, cá lóc nướng. Nụ hoa và lá phải nhúng qua nước sôi cho bớt đắng, thêm vào dưa leo, cà chua, xoài xanh. Ở Miền Tây nước ta và Campuchia, hoa nở vào cuối năm là một đặc sản thường được dùng để làm gỏi sầu đâu, một món ăn bài thuốc lưu truyền trong dân gian. Hoa tước bỏ xơ cùng với với khô (khô mực, khô cá – cá lóc, cá trê, cá sặc -, khô nai) được trộn với chung với củ cải, dưa leo bào mỏng và nước mắm. Vị đắng của hoa tương tự như mướp đắng, mang tính trầm, gây ra một cảm giác ngọt trên đầu lưỡi. Người ta tin món gỏi lạ miệng ăn ngon nầy, vừa béo vừa thơm, còn có tác dụng mát gan, giải độc, chữa táo bón. Như vậy, từ canh nông, y khoa, qua kỹ nghệ, ẩm thực, cây sầu đâu đã đóng góp đắc lực. Tạo hóa đã khéo tổng hợp, chỉ trong một cây mà không biết bao nhiêu là hóa chất : cây sầu đâu thật là một nhà máy hóa học tinh vi mà chưa có một thực hiện nào của con người có thể sánh được. Đặc biệt, trong số các hóa chất tự nó chế tạo ra, azadirachtin cũng như salanin, nimbin, deacetylnimbin đã từng được lập công thức thành thuốc trừ sâu bọ, bảo vệ mùa màng, hoa quả (10), bên cạnh các chất thuốc khử trùng, chống viêm, chữa loét, khối u, diệt muỗi, chữa trị sốt rét, bao dưỡng da, tóc, phòng ngừa thụ thai,… để chỉ kể một số ứng dụng thường gặp. Thật đúng là “cây dược phẩm trong làng”. Và cũng dễ hiểu khi thấy những hãng thuốc Hoa Kỳ muốn ghi văn bằng đoạt chiếm một tài nguyên quí báu như vậy, dân nhiều nước nhất là Á châu, đứng hàng đầu là Ấn Độ, lên tiếng phản đối. Nước ta chú trọng về canh nông, bị nhiều bệnh nhiệt đới hoành hành, không thể không kiếm cách khai thác một tài nguyên có một không hai như cây sầu đâu. Thông tin khoa học và Công nghệ 3 (1996) 3-24 (có sửa chữa và bổ sung) http://khoahocnet.com/2012/01/02/vo-quang-y%E1%BA%BFn-s%E1%BA%A7u-dau-s%E1%BA%A7u-dong-cay-thu%E1%BB%91c-tr%E1%BB%8B-ba-ch%E1%BB%A9ng/#more-3129

Bạn Nhà Nông 5/2013 (VTV Cần Thơ )

Bạn Nhà Nông 5/2013 (VTV Cần Thơ )

Thursday, August 8, 2013

Làm giàu từ vườn ươm cây ăn quả

Làm giàu từ vườn ươm cây ăn quả Nhờ lai ghép thành công nhiều giống cây mới mà thu nhập từ ươm đem lại lợi nhuận cho ông Huy từ 130-150 triệu đồng/năm, tạo việc làm cho 15-20 lao động, với thu nhập từ 4-4,5 triệu đồng/người/tháng... Vườn ươm cây ăn quả của gia đình ông Huy tạo việc làm thường xuyên cho 15-20 lao động Xuất ngũ năm 1991, trở về quê hương, ông Nguyễn Quốc Huy ở thôn Phúc Tân, xã Gia Tân (Gia Lộc) bắt tay ngay vào nghề ươm giống cây ăn quả. Lúc đầu vốn ít và chưa nắm vững kỹ thuật nên ông Huy chỉ lai ghép và ươm trồng giống cây ăn quả truyền thống như cam, bưởi, quýt với số lượng ít, cây giống chất lượng không cao, năng suất thấp, có vụ cây giống chết hết. Không nản chí, ông Huy đi nhiều nơi học hỏi những người làm nghề lai ghép, ươm cây giống. Cùng với sự hướng dẫn tỉ mỉ của người cha là kỹ sư nông nghiệp đã nghỉ hưu, ông Huy dần đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong lai ghép cây giống. Không chỉ tự lai ghép thành công nhiều giống cây chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, cho năng suất cao, chất lượng quả ngon... ông Huy còn mua nhiều loại giống từ Viện Cây lương thực và cây thực phẩm về ươm tại vườn nhà. Hiện vườn ươm nhà ông Huy có 17 nghìn cây ổi trắng số 1, 5.000 nghìn cây xoài Đài Loan, 15 nghìn cây táo, 3.000 cây hồng xiêm, 2.000 cây nhãn muộn Hưng Yên, 4.000 cây đu đủ... Tiếng lành đồn xa, ngoài những khách hàng là nông dân trong tỉnh, cây giống tại vườn ươm nhà ông Huy còn được bán rộng rãi cho nông dân ở nhiều tỉnh miền Bắc. Thu nhập từ ươm cây giống đem lại lợi nhuận cho ông Huy từ 130-150 triệu đồng/năm, đồng thời tạo việc làm cho 15-20 lao động địa phương, với thu nhập từ 4-4,5 triệu đồng/người/tháng. Không chỉ làm giàu cho gia đình, ông Nguyễn Quốc Huy còn là hội viên tích cực của Hội Nông dân xã Gia Tân. Ông tận tình hướng dẫn bà con nông dân kỹ thuật trồng, chăm sóc cây ăn quả để cho năng suất, chất lượng cao. Các năm 2009-2010, gia đình ông được Hội Nông dân Việt Nam công nhận là hộ sản xuất, kinh doanh giỏi cấp Trung ương. Trước đó, từ năm 1995 đến năm 2008, gia đình ông liên tục được công nhận là hộ sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh. http://www.vuonuom.com/tin-tuc/544-lam-giau-tu-vuon-uom-cay-an-qua.html

Làm giàu từ cây mít Thái

Làm giàu từ cây mít Thái Ông Mười bên cây mít 5 năm tuổi. Tại ấp Vĩnh Thuận, xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, hầu như bà con nông dân nào cũng thán phục ông Mười Thông Tin, một nông dân sản xuất giỏi, chuyên trồng mít Thái Changai, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tên thật của ông là Nguyễn Văn Mười, nhưng bà con quen gọi là Mười Thông Tin vì trước đây ông đã từng là cán bộ ngành văn hóa - thông tin ở địa phương. Ông Mười tâm sự: “Trước đây tôi đã trải qua nhiều nghề, từ đi buôn đến làm ruộng, làm vườn… có lúc trồng xoài cát Hòa Lộc, nghề nào tôi cũng quyết tâm, vắt óc ra làm nhưng kết quả không như ý muốn, khiến cho vợ chồng tôi nhiều đêm trăn trở, nên trồng cây gì, nuôi con gì cho có hiệu quả trên mảnh đất nhà. Thế là trong đầu tôi đã hình thành một ý tưởng nên chọn cây mít, vì đây là mặt hàng có giá trị kinh tế cao và đang tiêu thụ mạnh”. Trước khi bắt tay vào công việc, ông đã chịu khó học hỏi, nghiên cứu và đi đó đi đây tìm hiểu về các giống mít, từ mít nghệ cao sản, mít Thái siêu sớm (tứ quý) cho đến mít Thái da xanh, mít ruột đỏ, mít Malaysia… giống nào cũng có ưu điểm riêng của nó. Tuy nhiên, làm thế nào để chọn cho được giống mít ngon, năng suất cao, chất lượng tốt, vừa ăn tươi vừa dùng để chế biến, đó mới là điều quan trọng. Vì hiện nay, tại Việt Nam, ngoài những giống mít cao sản bản địa còn có hàng chục giống mới nhập về từ nước ngoài, vàng thau lẫn lộn, có thứ cơm mỏng, có thứ cơm cứng, cơm nhão, lại có thứ xơ nhiều múi ít… rất khó phân biệt loại nào là ưu việt, loại nào phù hợp với đất đai, thổ nhưỡng cho từng vùng. Cuối cùng ông đã quyết định chọn mít Thái Changai để sản xuất. Theo ông Mười, đây là giống mít dễ trồng, phát triển nhanh, trái sai, múi to, cơm dầy, hạt nhỏ, vỏ mỏng, thơm ngon và ngọt. Hiện nay, khách hàng rất ưa thích và các nhà máy sản xuất cũng chọn loại mít này để sấy khô nên người trồng không lo đầu ra và cũng không sợ bị rớt giá. Khởi đầu năm 2005, ông Mười đã chọn được 400 gốc ghép lấy từ Ô Môn đem về hạ thổ và cây phát triển rất nhanh. Từ niềm phấn khởi đó, ông tiếp tục trồng thêm đợt 2, nâng tổng số lên 1.000 gốc trên tổng diện tích là 16,5 công. Tất cả đều phát triển rất nhanh. Ông nhớ lại: Lúc mới mang mít giống về tới nhà, nhiều người cho rằng, ông không thức thời “trồng gì không trồng lại trồng mít, có trái rồi sẽ đem đổ sông, ai mà mua!”. Bây giờ thì thực tế đã chứng minh “cây mít” mà ông chọn trong thời điểm này không sai chút nào! Chỉ sau một năm rưỡi là cây bắt đầu có trái chiếng, nhưng đợi đến cây hai năm tuổi, ông mới nuôi trái. Hiện nay, cây nào cũng ra trái no tròn, đều đặn, mỗi trái nặng từ 7-20kg, cá biệt có những trái trên 20kg. Tính bình quân mỗi gốc mít 4 năm tuổi cho khoảng 150 kg/năm, giá bán ra từ 10.000-15.000 đ/kg, tùy loại I, II và III. Tính ra mỗi gốc mít tối thiểu cũng thu về 1,5 triệu đồng/năm. Theo ông Mười, mít ra trái quanh năm, nhưng chỉ nên cho trái hai vụ/năm để cây có thời gian nghỉ ngơi. Thông thường, mỗi cây cho rất nhiều trái, thậm chí cả trăm trái nhưng cần phải tỉa bỏ những trái đầu cành và trên thân cao, chỉ giữ lại những trái ôm thân và sát gốc, tối đa khoảng 15 trái/cây nếu cây dưới 4 năm tuổi. Khi cây trưởng thành, số trái có thể nâng lên nhiều hơn. Hiện nay, tại Hậu Giang chỉ có vườn mít Thái của ông Mười là trồng với số lượng lớn, sản lượng nhiều nhất. Những lúc cao điểm, mỗi ngày ông thu hoạch từ vài trăm kilôgam đến 1 tấn trái, nhưng không đủ để giao cho các bạn hàng chuyển đi các nơi, nhất là TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ông Mười cho biết thêm: Tuy mít dễ trồng, nhưng phải thường xuyên chăm sóc, bón phân và theo dõi các loài sâu đục trái, đục thân, nhất là bệnh nấm hại cây trong vụ Đông xuân. Ngoài ra, sau mỗi lần hái trái, phải cắt bỏ bớt cành lá rườm rà để cây nhận đầy đủ ánh sáng giúp cho trái to và ngọt. Vì theo kinh nghiệm, mít càng lâu năm, trái sẽ ngọt đậm, thơm và giòn hơn mít tơ. Có thể nói, vợ chồng ông Mười là những nông dân cần cù, năng động và chịu khó, dám đầu tư và quyết tâm tạo dựng cho khu vườn ngày càng sung túc. Bất cứ ai đến tham quan vườn mít của ông cũng đều ngợi khen đây là một vườn cây đầy ấn tượng, không những trái sai oằn, đầy đặn mà bờ liếp cũng khang trang, áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, bảo đảm môi trường sạch đẹp. Với thành tích trên, ông Mười đã nhiều năm liền được chọn là nông dân sản xuất giỏi và vinh dự nhận được giấy khen của huyện Vị Thủy. Bà Lê Thị Thanh Hoa, Trưởng khối vận xã Vĩnh Tường, nhận định: “Ông Nguyễn Văn Mười là một nông dân cần cù, chịu khó, biết áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên vườn mít của ông năng suất rất cao so với nhiều nơi khác”. Ngoài trồng mít, ông còn kết hợp thả cá trong ao mương và nuôi gà ta theo mô hình VAC. Đặc biệt, ông đã dùng mít non và mít tuyển bỏ rồi bằm nhỏ để làm thức ăn cho gà và cá nên chi phí giảm rất nhiều. Nhờ vậy, chỉ tính riêng tiền thu nhập từ cá và gà mỗi năm cũng trên 70 triệu đồng.

Làm giàu trên đất Tây Nam Bộ

Làm giàu trên đất Tây Nam Bộ Thứ hai, 01/07/2013 - 02:07 AM (GMT+7) [+] Cỡ chữ: Mặc định Nhiều nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm giàu từ nghề nuôi cá tra. Nhiều nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm giàu từ nghề nuôi cá tra. Về miền Tây, những vùng quê nghèo nắng cháy da lưng, đồng khô cỏ lác, những vườn cây cỏ dại um tùm che đỉnh đầu người... của những năm đầu giải phóng đã trở thành quá khứ. Giờ đây, dưới bàn tay, khối óc cùng sự chịu thương, chịu khó của những người nông dân cần cù, một nắng hai sương, đất và quê hương miền Tây Nam Bộ đã thay da đổi thịt. Những mô hình nông dân làm giàu, những cánh đồng, vườn cây, ao cá... thu về hàng trăm triệu đến hàng tỷ đồng/năm không còn là chuyện hiếm ở vùng đất này. Hàng trăm nghìn mô hình nông dân làm giàu ở miền Tây có nét riêng đặc biệt; đó là đa dạng từ những mô hình đa canh, xen canh, thâm canh, luân canh; từ những cánh đồng lúa vàng trĩu hạt, những vườn cây trĩu quả đến những ao cá, vuông tôm, ruộng muối... Tất cả tạo nên bức tranh tổng thể của một miền Tây phát triển, một đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) đang vươn mình cùng cả nước xây dựng nền kinh tế nông nghiệp bền vững. Về đất Sóc Trăng, một trong những tỉnh mới chia tách còn nhiều khó khăn nhất vùng ÐBSCL, chúng tôi không khỏi cảm phục trước những mô hình nông dân làm giàu hiệu quả. Từ trung tâm TP Sóc Trăng đến vùng tôm - lúa ở xã Ngọc Ðông, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), rẽ vào đường nhánh xuyên qua cánh đồng tôm - lúa, chạy quanh co chừng 30 km mới tới Hợp tác xã (HTX) lúa - tôm Hòa Lời, một trong những mô hình điểm sáng nhất trong phong trào phát triển nông nghiệp của nông dân tỉnh Sóc Trăng nhiều năm qua. Tiếp chúng tôi trong căn nhà khang trang, Chủ nhiệm HTX Mai Văn Chánh cho biết: Trước đây, nông dân vùng này chỉ trông cậy vào một vụ tôm, nhưng lại mất mùa thường xuyên. Cuộc sống của phần lớn bà con khá bấp bênh, nhiều gia đình rơi vào cảnh nợ nần. Vài năm trước, lúc nào chúng tôi cũng canh cánh trong lòng nỗi lo làm sao để gia đình mình và bà con nơi đây thoát khỏi cảnh đói nghèo, vươn lên khá, giàu trên vùng đất Ngọc Ðông này. Ông Chánh nhớ lại: "Thấy một số nơi có vùng đất lợ, xâm nhập mặn theo chu kỳ nhưng vẫn có thể canh tác lúa, nhất là ở tỉnh Kiên Giang, cho nên tôi đã bàn với anh em thử canh tác xen canh giữa cây lúa và con tôm xem sao. Con tôm sẽ vẫn là nguồn thu chính nhưng chính nó giúp cải tạo nguồn nước cho cây lúa phát triển. Nếu lúa tốt thì mình có thêm thu nhập, nhưng nếu có cho năng suất thấp thì cũng còn con tôm. Ðiều quan trọng là sau khi thu hoạch một vụ tôm, thường xuyên cho nước ra vào ruộng, cứ như vậy kéo dài khoảng nửa tháng để rửa mặn trên đồng ruộng thì mới bắt tay vào làm một vụ lúa. Cuối cùng, bà con nơi đây quyết không bỏ con tôm mà chọn mô hình một vụ tôm, một vụ lúa. Hiệu quả mang lại từ mô hình này đã thấy rõ". Ði nhiều nơi tìm giống, học hỏi kinh nghiệm canh tác, kỹ thuật xử lý nguồn nước, bón phân, xịt thuốc... cuối cùng 30 người đầu tiên tham gia làm xã viên trong HTX đã chọn một loại giống lúa kháng rầy sâu bệnh, chịu mặn; xuống giống đồng loạt để né rầy. Niềm vui ấy còn được nhân lên gấp bội khi chỉ vài vụ canh tác hiệu quả, Công ty cổ phần Gentraco tại TP Cần Thơ liên kết với HTX bao tiêu luôn hạt lúa làm ra, tạo đầu ra càng ổn định hơn cho cây lúa trên đồng ngập mặn Ngọc Ðông này. Chỉ riêng gia đình ông Chánh, sau chưa đầy 10 năm phát triển, với 1,7 ha đất canh tác, mỗi năm luân canh vụ tôm - vụ lúa, có tổng thu nhập hơn 320 triệu đồng. Riêng lúa sản xuất theo quy trình GlobalGAP thì bán cao hơn giá thị trường 20%. Ông Chánh đã xây được một căn nhà hơn 500 triệu đồng, mua sắm đầy đủ tiện nghi, lo cho hai con ăn học. Từ đây, hàng nghìn nông dân ở các xã chung quanh cũng đã làm giàu từ mô hình tôm - lúa trên vùng đất lợ như ông Chánh, nhiều hộ có "của ăn của để". Chia tay mô hình lúa - tôm ở Sóc Trăng, ngược dòng sông Hậu, về tỉnh An Giang, một trong những địa phương có nhiều mô hình canh tác đất nông nghiệp hiệu quả, trong đó, các mô hình xen canh hai lúa một màu hay chuyên canh lúa đặc sản, nếp thơm, vườn rừng kết hợp chăn nuôi hay ruộng - vườn - ao - chuồng khép kín... đã trở thành điểm sáng trong phong trào nông dân làm giàu của khu vực và trong cả nước từ những năm đầu đổi mới. Trên những vùng đất cao, phèn nặng, vừa khai phá hơn 10 năm qua: Lương Phi, An Tức, Lương An Trà (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), tưởng chừng là vùng đất chết nhưng nay đã trở thành vùng đất vàng với mô hình xen canh hai lúa một màu hiệu quả. Trên cánh đồng xã An Tức, anh Trần Văn Phước đang cùng hàng chục nhân công xuống giống cây dưa hấu xen canh giữa hai vụ lúa đông xuân - hè thu, cho biết: "Nếu ai từng biết về đất này hơn chục năm về trước khó mà nghĩ được có thể xen canh hai lúa một màu. Cây lúa giờ đã cho năng suất bình quân từ năm tấn đến bảy tấn/ha, còn dưa hấu cũng cho thu hoạch mỗi vụ ít nhất từ ba đến sáu triệu đồng/công, vụ trúng giá lên đến cả chục triệu đồng/công. Nếu tính bình quân, đất nông nghiệp ở vùng này giờ cho thu nhập mức bình quân cũng ngót nghét 40 đến 60 triệu đồng/ha". Chuyện làm giàu thành công của người nông dân nơi đây cũng phải nhờ việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào canh tác cùng sự năng động trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Ðó là việc nông dân đồng lòng cùng Nhà nước, chính quyền địa phương xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng, thau chua, rửa phèn. Hội Nông dân các cấp triển khai chương trình khuyến nông, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng. Và chính sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy làm ăn, những ruộng lúa thuần nông bắt đầu xuất hiện và giờ đây, vùng đất phèn miền núi Tri Tôn đã có thể canh tác ba vụ lúa/năm và cả xen canh hai lúa một màu, đặc biệt là đã thành công với nhiều trang trại canh tác lúa giống hàng đầu của tỉnh. Về chuyện làm giàu trên vùng "đất chết" một thời, vua lúa giống Tư Liêu (Lê Minh Liêu, thương binh hạng 4/4, ngụ xã Lương Phi, Tri Tôn, An Giang) kể: "Vùng này ngày trước gần như là vùng "đất chết", nhờ Nhà nước hỗ trợ, bà con nông dân mạnh dạn tiến hành áp dụng các biện pháp xử lý vôi, phân theo hướng dẫn của ngành nông nghiệp, nhất là các biện pháp cấy, sạ hàng hiệu quả. Từ đó, những ruộng lúa giống đã hình thành, không chỉ giúp bà con có nguồn giống tốt mà còn tăng nguồn thu nhập đáng kể". Từ năm 2005 đến nay, những công ty, doanh nghiệp tư nhân, trang trại nhân lúa giống quy mô như Tiêu Liêu, Sáu Ðức, Bình Binh... đã trở thành những mô hình làm giàu tiêu biểu trong phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi ở tỉnh An Giang. Chia tay những ruộng đồng, con tôm ở Sóc Trăng, An Giang, qua đất Ðồng Tháp ven dòng sông Tiền, những năm qua, dưới sự hỗ trợ từ các cấp Hội Nông dân, ngành chức năng, chính quyền địa phương, phong trào nông dân làm giàu nơi đây cũng khá đa dạng. Thăm những trang trại trồng hoa kiểng nức tiếng của nhà nông xứ Sa Ðéc đến những vườn cam quýt ngọt lịm, chín vàng trĩu quả miệt Lai Vung mới thấy hết chuyện làm ăn của bà con cũng như đời sống nhân dân vùng đất Cửu Long ngày một thay da, đổi thịt. Về Sa Ðéc, không khó để tìm gặp những triệu phú trồng hoa đất này. Là nghề truyền thống cho nên nông dân Sa Ðéc đã thật sự trở thành những chuyên gia của mô hình làm giàu từ cây hoa ở đất miền Tây. Chị Phạm Thị Liễu, một nông dân có nhiều năm trong nghề trồng hoa, cây kiểng ở Tân Quy Ðông cho biết, với diện tích gần hai ha đất trồng hoa, cây kiểng quanh năm, chị thu lợi hằng năm hơn 200 triệu đồng, đủ trang trải trong gia đình, nuôi con ăn học và có của dư của để. Ba năm qua, chính quyền thị xã Sa Ðéc đã xây dựng một thương hiệu cạnh tranh thật sự cho hoa, cây cảnh hình thành. Hiện có hơn 1.500 hộ trồng hoa, cây cảnh với hơn 1.000 chủng loại hoa, cây cảnh khác nhau, tạo nên một nét riêng độc đáo rực rỡ sắc mầu bên dòng sông Tiền. Bình quân mỗi ha trồng hoa, cây cảnh thu lãi hơn 200 triệu đồng/năm, lãi gấp 5 đến 10 lần trồng lúa. Về đất Lai Vung, gặp nhà vườn Trần Văn Tấn, một nông dân đã nhiều năm canh tác quýt, kể: "Cây quýt đường, quýt hồng, cam mật, cam sành... đã trở thành thương hiệu cho vùng đất Lai Vung. Tuy nhiên, ngày trước, thế hệ cha ông chỉ canh tác theo truyền thống, đầu ra không ổn định rồi thoái hóa giống... cho nên có thời kỳ, cây có múi nói chung ở đất này bị đốn hạ gần hết. Nhưng gần ba năm trở lại đây, nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong ghép giống cây trồng, canh tác theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP..., cùng sự hợp tác với các đầu mối tiêu thụ ổn định, uy tín, cho nên giờ cây quýt đường đã trở thành "cây hái ra tiền" cho bà con Lai Vung". Quýt đường trồng bằng kỹ thuật ghép, thời gian sinh trưởng và cho trái khá nhanh, khoảng từ 18 đến 24 tháng là có thu hoạch. Do đặc tính quýt đường là ra hoa, có trái nhiều đợt trong một năm, cho nên dù năng suất không cao và cho trái không tập trung như quýt hồng, nhưng giá cả ổn định, cho thu nhập cao. Vài năm trở lại đây, mô hình trồng quýt đường đã nhân rộng với khoảng 700 ha, Lai Vung không những đã gây dựng lại được thương hiệu "vương quốc cam quýt" một thời mà còn giúp bà con có nguồn thu nhập ổn định và nhiều nhà vườn trở thành triệu phú. Còn rất nhiều mô hình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, liên kết canh tác, mô hình kinh tế vườn, trang trại hiệu quả... của bà con nông dân đất miền Tây Nam Bộ. Thế nhưng, kết cho câu chuyện về chuyện "làm giàu trên đất miền Tây" của những tỷ phú nông dân miền đất "chín rồng", chúng tôi xin mượn lời tâm sự của một nông dân, cũng nguyên là lãnh đạo nông nghiệp, chính quyền tỉnh An Giang, đồng chí Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang: Nông dân miền Tây thật năng động. Ðể ngày càng có nhiều nông dân triệu phú, tỷ phú, cần chỉ cho họ đâu có nhiều cá, đâu mua được cần câu tốt, từ đó họ sẽ nắm bắt ngay để "câu ngay, câu nhiều" những con cá lớn. Hơn 20 năm qua, cây lúa đã giúp nhiều nông dân ÐBSCL trở thành những "tỷ phú hai lúa". BẢO TRỊ, MINH TRƯỜNG và NHỰT TRUNG http://www.nhandan.com.vn/kinhte/chuyen-lam-an/item/20669602-l%C3%83%C6%92%C3%82%C2%A0m-gi%C3%83%C6%92%C3%82%C2%A0u-tr%C3%83%C6%92%C3%82%C2%AAn-%C3%83%E2%80%9E%C3%A2%E2%82%AC%CB%9C%C3%83%C2%A1%C3%82%C2%BA%C3%82%C2%A5t-t%C3%83%C6%92%C3%82%C2%A2y-nam-b%C3%83%C2%A1%C3%82%C2%BB%C3%A2%E2%80%9E%C2%A2.html