Thursday, August 8, 2013

Làm giàu từ vườn ươm cây ăn quả

Làm giàu từ vườn ươm cây ăn quả Nhờ lai ghép thành công nhiều giống cây mới mà thu nhập từ ươm đem lại lợi nhuận cho ông Huy từ 130-150 triệu đồng/năm, tạo việc làm cho 15-20 lao động, với thu nhập từ 4-4,5 triệu đồng/người/tháng... Vườn ươm cây ăn quả của gia đình ông Huy tạo việc làm thường xuyên cho 15-20 lao động Xuất ngũ năm 1991, trở về quê hương, ông Nguyễn Quốc Huy ở thôn Phúc Tân, xã Gia Tân (Gia Lộc) bắt tay ngay vào nghề ươm giống cây ăn quả. Lúc đầu vốn ít và chưa nắm vững kỹ thuật nên ông Huy chỉ lai ghép và ươm trồng giống cây ăn quả truyền thống như cam, bưởi, quýt với số lượng ít, cây giống chất lượng không cao, năng suất thấp, có vụ cây giống chết hết. Không nản chí, ông Huy đi nhiều nơi học hỏi những người làm nghề lai ghép, ươm cây giống. Cùng với sự hướng dẫn tỉ mỉ của người cha là kỹ sư nông nghiệp đã nghỉ hưu, ông Huy dần đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong lai ghép cây giống. Không chỉ tự lai ghép thành công nhiều giống cây chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, cho năng suất cao, chất lượng quả ngon... ông Huy còn mua nhiều loại giống từ Viện Cây lương thực và cây thực phẩm về ươm tại vườn nhà. Hiện vườn ươm nhà ông Huy có 17 nghìn cây ổi trắng số 1, 5.000 nghìn cây xoài Đài Loan, 15 nghìn cây táo, 3.000 cây hồng xiêm, 2.000 cây nhãn muộn Hưng Yên, 4.000 cây đu đủ... Tiếng lành đồn xa, ngoài những khách hàng là nông dân trong tỉnh, cây giống tại vườn ươm nhà ông Huy còn được bán rộng rãi cho nông dân ở nhiều tỉnh miền Bắc. Thu nhập từ ươm cây giống đem lại lợi nhuận cho ông Huy từ 130-150 triệu đồng/năm, đồng thời tạo việc làm cho 15-20 lao động địa phương, với thu nhập từ 4-4,5 triệu đồng/người/tháng. Không chỉ làm giàu cho gia đình, ông Nguyễn Quốc Huy còn là hội viên tích cực của Hội Nông dân xã Gia Tân. Ông tận tình hướng dẫn bà con nông dân kỹ thuật trồng, chăm sóc cây ăn quả để cho năng suất, chất lượng cao. Các năm 2009-2010, gia đình ông được Hội Nông dân Việt Nam công nhận là hộ sản xuất, kinh doanh giỏi cấp Trung ương. Trước đó, từ năm 1995 đến năm 2008, gia đình ông liên tục được công nhận là hộ sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh. http://www.vuonuom.com/tin-tuc/544-lam-giau-tu-vuon-uom-cay-an-qua.html

Làm giàu từ cây mít Thái

Làm giàu từ cây mít Thái Ông Mười bên cây mít 5 năm tuổi. Tại ấp Vĩnh Thuận, xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, hầu như bà con nông dân nào cũng thán phục ông Mười Thông Tin, một nông dân sản xuất giỏi, chuyên trồng mít Thái Changai, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tên thật của ông là Nguyễn Văn Mười, nhưng bà con quen gọi là Mười Thông Tin vì trước đây ông đã từng là cán bộ ngành văn hóa - thông tin ở địa phương. Ông Mười tâm sự: “Trước đây tôi đã trải qua nhiều nghề, từ đi buôn đến làm ruộng, làm vườn… có lúc trồng xoài cát Hòa Lộc, nghề nào tôi cũng quyết tâm, vắt óc ra làm nhưng kết quả không như ý muốn, khiến cho vợ chồng tôi nhiều đêm trăn trở, nên trồng cây gì, nuôi con gì cho có hiệu quả trên mảnh đất nhà. Thế là trong đầu tôi đã hình thành một ý tưởng nên chọn cây mít, vì đây là mặt hàng có giá trị kinh tế cao và đang tiêu thụ mạnh”. Trước khi bắt tay vào công việc, ông đã chịu khó học hỏi, nghiên cứu và đi đó đi đây tìm hiểu về các giống mít, từ mít nghệ cao sản, mít Thái siêu sớm (tứ quý) cho đến mít Thái da xanh, mít ruột đỏ, mít Malaysia… giống nào cũng có ưu điểm riêng của nó. Tuy nhiên, làm thế nào để chọn cho được giống mít ngon, năng suất cao, chất lượng tốt, vừa ăn tươi vừa dùng để chế biến, đó mới là điều quan trọng. Vì hiện nay, tại Việt Nam, ngoài những giống mít cao sản bản địa còn có hàng chục giống mới nhập về từ nước ngoài, vàng thau lẫn lộn, có thứ cơm mỏng, có thứ cơm cứng, cơm nhão, lại có thứ xơ nhiều múi ít… rất khó phân biệt loại nào là ưu việt, loại nào phù hợp với đất đai, thổ nhưỡng cho từng vùng. Cuối cùng ông đã quyết định chọn mít Thái Changai để sản xuất. Theo ông Mười, đây là giống mít dễ trồng, phát triển nhanh, trái sai, múi to, cơm dầy, hạt nhỏ, vỏ mỏng, thơm ngon và ngọt. Hiện nay, khách hàng rất ưa thích và các nhà máy sản xuất cũng chọn loại mít này để sấy khô nên người trồng không lo đầu ra và cũng không sợ bị rớt giá. Khởi đầu năm 2005, ông Mười đã chọn được 400 gốc ghép lấy từ Ô Môn đem về hạ thổ và cây phát triển rất nhanh. Từ niềm phấn khởi đó, ông tiếp tục trồng thêm đợt 2, nâng tổng số lên 1.000 gốc trên tổng diện tích là 16,5 công. Tất cả đều phát triển rất nhanh. Ông nhớ lại: Lúc mới mang mít giống về tới nhà, nhiều người cho rằng, ông không thức thời “trồng gì không trồng lại trồng mít, có trái rồi sẽ đem đổ sông, ai mà mua!”. Bây giờ thì thực tế đã chứng minh “cây mít” mà ông chọn trong thời điểm này không sai chút nào! Chỉ sau một năm rưỡi là cây bắt đầu có trái chiếng, nhưng đợi đến cây hai năm tuổi, ông mới nuôi trái. Hiện nay, cây nào cũng ra trái no tròn, đều đặn, mỗi trái nặng từ 7-20kg, cá biệt có những trái trên 20kg. Tính bình quân mỗi gốc mít 4 năm tuổi cho khoảng 150 kg/năm, giá bán ra từ 10.000-15.000 đ/kg, tùy loại I, II và III. Tính ra mỗi gốc mít tối thiểu cũng thu về 1,5 triệu đồng/năm. Theo ông Mười, mít ra trái quanh năm, nhưng chỉ nên cho trái hai vụ/năm để cây có thời gian nghỉ ngơi. Thông thường, mỗi cây cho rất nhiều trái, thậm chí cả trăm trái nhưng cần phải tỉa bỏ những trái đầu cành và trên thân cao, chỉ giữ lại những trái ôm thân và sát gốc, tối đa khoảng 15 trái/cây nếu cây dưới 4 năm tuổi. Khi cây trưởng thành, số trái có thể nâng lên nhiều hơn. Hiện nay, tại Hậu Giang chỉ có vườn mít Thái của ông Mười là trồng với số lượng lớn, sản lượng nhiều nhất. Những lúc cao điểm, mỗi ngày ông thu hoạch từ vài trăm kilôgam đến 1 tấn trái, nhưng không đủ để giao cho các bạn hàng chuyển đi các nơi, nhất là TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ông Mười cho biết thêm: Tuy mít dễ trồng, nhưng phải thường xuyên chăm sóc, bón phân và theo dõi các loài sâu đục trái, đục thân, nhất là bệnh nấm hại cây trong vụ Đông xuân. Ngoài ra, sau mỗi lần hái trái, phải cắt bỏ bớt cành lá rườm rà để cây nhận đầy đủ ánh sáng giúp cho trái to và ngọt. Vì theo kinh nghiệm, mít càng lâu năm, trái sẽ ngọt đậm, thơm và giòn hơn mít tơ. Có thể nói, vợ chồng ông Mười là những nông dân cần cù, năng động và chịu khó, dám đầu tư và quyết tâm tạo dựng cho khu vườn ngày càng sung túc. Bất cứ ai đến tham quan vườn mít của ông cũng đều ngợi khen đây là một vườn cây đầy ấn tượng, không những trái sai oằn, đầy đặn mà bờ liếp cũng khang trang, áp dụng đúng khoa học kỹ thuật, bảo đảm môi trường sạch đẹp. Với thành tích trên, ông Mười đã nhiều năm liền được chọn là nông dân sản xuất giỏi và vinh dự nhận được giấy khen của huyện Vị Thủy. Bà Lê Thị Thanh Hoa, Trưởng khối vận xã Vĩnh Tường, nhận định: “Ông Nguyễn Văn Mười là một nông dân cần cù, chịu khó, biết áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên vườn mít của ông năng suất rất cao so với nhiều nơi khác”. Ngoài trồng mít, ông còn kết hợp thả cá trong ao mương và nuôi gà ta theo mô hình VAC. Đặc biệt, ông đã dùng mít non và mít tuyển bỏ rồi bằm nhỏ để làm thức ăn cho gà và cá nên chi phí giảm rất nhiều. Nhờ vậy, chỉ tính riêng tiền thu nhập từ cá và gà mỗi năm cũng trên 70 triệu đồng.

Làm giàu trên đất Tây Nam Bộ

Làm giàu trên đất Tây Nam Bộ Thứ hai, 01/07/2013 - 02:07 AM (GMT+7) [+] Cỡ chữ: Mặc định Nhiều nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm giàu từ nghề nuôi cá tra. Nhiều nông dân đồng bằng sông Cửu Long làm giàu từ nghề nuôi cá tra. Về miền Tây, những vùng quê nghèo nắng cháy da lưng, đồng khô cỏ lác, những vườn cây cỏ dại um tùm che đỉnh đầu người... của những năm đầu giải phóng đã trở thành quá khứ. Giờ đây, dưới bàn tay, khối óc cùng sự chịu thương, chịu khó của những người nông dân cần cù, một nắng hai sương, đất và quê hương miền Tây Nam Bộ đã thay da đổi thịt. Những mô hình nông dân làm giàu, những cánh đồng, vườn cây, ao cá... thu về hàng trăm triệu đến hàng tỷ đồng/năm không còn là chuyện hiếm ở vùng đất này. Hàng trăm nghìn mô hình nông dân làm giàu ở miền Tây có nét riêng đặc biệt; đó là đa dạng từ những mô hình đa canh, xen canh, thâm canh, luân canh; từ những cánh đồng lúa vàng trĩu hạt, những vườn cây trĩu quả đến những ao cá, vuông tôm, ruộng muối... Tất cả tạo nên bức tranh tổng thể của một miền Tây phát triển, một đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) đang vươn mình cùng cả nước xây dựng nền kinh tế nông nghiệp bền vững. Về đất Sóc Trăng, một trong những tỉnh mới chia tách còn nhiều khó khăn nhất vùng ÐBSCL, chúng tôi không khỏi cảm phục trước những mô hình nông dân làm giàu hiệu quả. Từ trung tâm TP Sóc Trăng đến vùng tôm - lúa ở xã Ngọc Ðông, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng), rẽ vào đường nhánh xuyên qua cánh đồng tôm - lúa, chạy quanh co chừng 30 km mới tới Hợp tác xã (HTX) lúa - tôm Hòa Lời, một trong những mô hình điểm sáng nhất trong phong trào phát triển nông nghiệp của nông dân tỉnh Sóc Trăng nhiều năm qua. Tiếp chúng tôi trong căn nhà khang trang, Chủ nhiệm HTX Mai Văn Chánh cho biết: Trước đây, nông dân vùng này chỉ trông cậy vào một vụ tôm, nhưng lại mất mùa thường xuyên. Cuộc sống của phần lớn bà con khá bấp bênh, nhiều gia đình rơi vào cảnh nợ nần. Vài năm trước, lúc nào chúng tôi cũng canh cánh trong lòng nỗi lo làm sao để gia đình mình và bà con nơi đây thoát khỏi cảnh đói nghèo, vươn lên khá, giàu trên vùng đất Ngọc Ðông này. Ông Chánh nhớ lại: "Thấy một số nơi có vùng đất lợ, xâm nhập mặn theo chu kỳ nhưng vẫn có thể canh tác lúa, nhất là ở tỉnh Kiên Giang, cho nên tôi đã bàn với anh em thử canh tác xen canh giữa cây lúa và con tôm xem sao. Con tôm sẽ vẫn là nguồn thu chính nhưng chính nó giúp cải tạo nguồn nước cho cây lúa phát triển. Nếu lúa tốt thì mình có thêm thu nhập, nhưng nếu có cho năng suất thấp thì cũng còn con tôm. Ðiều quan trọng là sau khi thu hoạch một vụ tôm, thường xuyên cho nước ra vào ruộng, cứ như vậy kéo dài khoảng nửa tháng để rửa mặn trên đồng ruộng thì mới bắt tay vào làm một vụ lúa. Cuối cùng, bà con nơi đây quyết không bỏ con tôm mà chọn mô hình một vụ tôm, một vụ lúa. Hiệu quả mang lại từ mô hình này đã thấy rõ". Ði nhiều nơi tìm giống, học hỏi kinh nghiệm canh tác, kỹ thuật xử lý nguồn nước, bón phân, xịt thuốc... cuối cùng 30 người đầu tiên tham gia làm xã viên trong HTX đã chọn một loại giống lúa kháng rầy sâu bệnh, chịu mặn; xuống giống đồng loạt để né rầy. Niềm vui ấy còn được nhân lên gấp bội khi chỉ vài vụ canh tác hiệu quả, Công ty cổ phần Gentraco tại TP Cần Thơ liên kết với HTX bao tiêu luôn hạt lúa làm ra, tạo đầu ra càng ổn định hơn cho cây lúa trên đồng ngập mặn Ngọc Ðông này. Chỉ riêng gia đình ông Chánh, sau chưa đầy 10 năm phát triển, với 1,7 ha đất canh tác, mỗi năm luân canh vụ tôm - vụ lúa, có tổng thu nhập hơn 320 triệu đồng. Riêng lúa sản xuất theo quy trình GlobalGAP thì bán cao hơn giá thị trường 20%. Ông Chánh đã xây được một căn nhà hơn 500 triệu đồng, mua sắm đầy đủ tiện nghi, lo cho hai con ăn học. Từ đây, hàng nghìn nông dân ở các xã chung quanh cũng đã làm giàu từ mô hình tôm - lúa trên vùng đất lợ như ông Chánh, nhiều hộ có "của ăn của để". Chia tay mô hình lúa - tôm ở Sóc Trăng, ngược dòng sông Hậu, về tỉnh An Giang, một trong những địa phương có nhiều mô hình canh tác đất nông nghiệp hiệu quả, trong đó, các mô hình xen canh hai lúa một màu hay chuyên canh lúa đặc sản, nếp thơm, vườn rừng kết hợp chăn nuôi hay ruộng - vườn - ao - chuồng khép kín... đã trở thành điểm sáng trong phong trào nông dân làm giàu của khu vực và trong cả nước từ những năm đầu đổi mới. Trên những vùng đất cao, phèn nặng, vừa khai phá hơn 10 năm qua: Lương Phi, An Tức, Lương An Trà (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), tưởng chừng là vùng đất chết nhưng nay đã trở thành vùng đất vàng với mô hình xen canh hai lúa một màu hiệu quả. Trên cánh đồng xã An Tức, anh Trần Văn Phước đang cùng hàng chục nhân công xuống giống cây dưa hấu xen canh giữa hai vụ lúa đông xuân - hè thu, cho biết: "Nếu ai từng biết về đất này hơn chục năm về trước khó mà nghĩ được có thể xen canh hai lúa một màu. Cây lúa giờ đã cho năng suất bình quân từ năm tấn đến bảy tấn/ha, còn dưa hấu cũng cho thu hoạch mỗi vụ ít nhất từ ba đến sáu triệu đồng/công, vụ trúng giá lên đến cả chục triệu đồng/công. Nếu tính bình quân, đất nông nghiệp ở vùng này giờ cho thu nhập mức bình quân cũng ngót nghét 40 đến 60 triệu đồng/ha". Chuyện làm giàu thành công của người nông dân nơi đây cũng phải nhờ việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào canh tác cùng sự năng động trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Ðó là việc nông dân đồng lòng cùng Nhà nước, chính quyền địa phương xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng, thau chua, rửa phèn. Hội Nông dân các cấp triển khai chương trình khuyến nông, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào đồng ruộng. Và chính sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy làm ăn, những ruộng lúa thuần nông bắt đầu xuất hiện và giờ đây, vùng đất phèn miền núi Tri Tôn đã có thể canh tác ba vụ lúa/năm và cả xen canh hai lúa một màu, đặc biệt là đã thành công với nhiều trang trại canh tác lúa giống hàng đầu của tỉnh. Về chuyện làm giàu trên vùng "đất chết" một thời, vua lúa giống Tư Liêu (Lê Minh Liêu, thương binh hạng 4/4, ngụ xã Lương Phi, Tri Tôn, An Giang) kể: "Vùng này ngày trước gần như là vùng "đất chết", nhờ Nhà nước hỗ trợ, bà con nông dân mạnh dạn tiến hành áp dụng các biện pháp xử lý vôi, phân theo hướng dẫn của ngành nông nghiệp, nhất là các biện pháp cấy, sạ hàng hiệu quả. Từ đó, những ruộng lúa giống đã hình thành, không chỉ giúp bà con có nguồn giống tốt mà còn tăng nguồn thu nhập đáng kể". Từ năm 2005 đến nay, những công ty, doanh nghiệp tư nhân, trang trại nhân lúa giống quy mô như Tiêu Liêu, Sáu Ðức, Bình Binh... đã trở thành những mô hình làm giàu tiêu biểu trong phong trào nông dân sản xuất kinh doanh giỏi ở tỉnh An Giang. Chia tay những ruộng đồng, con tôm ở Sóc Trăng, An Giang, qua đất Ðồng Tháp ven dòng sông Tiền, những năm qua, dưới sự hỗ trợ từ các cấp Hội Nông dân, ngành chức năng, chính quyền địa phương, phong trào nông dân làm giàu nơi đây cũng khá đa dạng. Thăm những trang trại trồng hoa kiểng nức tiếng của nhà nông xứ Sa Ðéc đến những vườn cam quýt ngọt lịm, chín vàng trĩu quả miệt Lai Vung mới thấy hết chuyện làm ăn của bà con cũng như đời sống nhân dân vùng đất Cửu Long ngày một thay da, đổi thịt. Về Sa Ðéc, không khó để tìm gặp những triệu phú trồng hoa đất này. Là nghề truyền thống cho nên nông dân Sa Ðéc đã thật sự trở thành những chuyên gia của mô hình làm giàu từ cây hoa ở đất miền Tây. Chị Phạm Thị Liễu, một nông dân có nhiều năm trong nghề trồng hoa, cây kiểng ở Tân Quy Ðông cho biết, với diện tích gần hai ha đất trồng hoa, cây kiểng quanh năm, chị thu lợi hằng năm hơn 200 triệu đồng, đủ trang trải trong gia đình, nuôi con ăn học và có của dư của để. Ba năm qua, chính quyền thị xã Sa Ðéc đã xây dựng một thương hiệu cạnh tranh thật sự cho hoa, cây cảnh hình thành. Hiện có hơn 1.500 hộ trồng hoa, cây cảnh với hơn 1.000 chủng loại hoa, cây cảnh khác nhau, tạo nên một nét riêng độc đáo rực rỡ sắc mầu bên dòng sông Tiền. Bình quân mỗi ha trồng hoa, cây cảnh thu lãi hơn 200 triệu đồng/năm, lãi gấp 5 đến 10 lần trồng lúa. Về đất Lai Vung, gặp nhà vườn Trần Văn Tấn, một nông dân đã nhiều năm canh tác quýt, kể: "Cây quýt đường, quýt hồng, cam mật, cam sành... đã trở thành thương hiệu cho vùng đất Lai Vung. Tuy nhiên, ngày trước, thế hệ cha ông chỉ canh tác theo truyền thống, đầu ra không ổn định rồi thoái hóa giống... cho nên có thời kỳ, cây có múi nói chung ở đất này bị đốn hạ gần hết. Nhưng gần ba năm trở lại đây, nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong ghép giống cây trồng, canh tác theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP..., cùng sự hợp tác với các đầu mối tiêu thụ ổn định, uy tín, cho nên giờ cây quýt đường đã trở thành "cây hái ra tiền" cho bà con Lai Vung". Quýt đường trồng bằng kỹ thuật ghép, thời gian sinh trưởng và cho trái khá nhanh, khoảng từ 18 đến 24 tháng là có thu hoạch. Do đặc tính quýt đường là ra hoa, có trái nhiều đợt trong một năm, cho nên dù năng suất không cao và cho trái không tập trung như quýt hồng, nhưng giá cả ổn định, cho thu nhập cao. Vài năm trở lại đây, mô hình trồng quýt đường đã nhân rộng với khoảng 700 ha, Lai Vung không những đã gây dựng lại được thương hiệu "vương quốc cam quýt" một thời mà còn giúp bà con có nguồn thu nhập ổn định và nhiều nhà vườn trở thành triệu phú. Còn rất nhiều mô hình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, liên kết canh tác, mô hình kinh tế vườn, trang trại hiệu quả... của bà con nông dân đất miền Tây Nam Bộ. Thế nhưng, kết cho câu chuyện về chuyện "làm giàu trên đất miền Tây" của những tỷ phú nông dân miền đất "chín rồng", chúng tôi xin mượn lời tâm sự của một nông dân, cũng nguyên là lãnh đạo nông nghiệp, chính quyền tỉnh An Giang, đồng chí Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang: Nông dân miền Tây thật năng động. Ðể ngày càng có nhiều nông dân triệu phú, tỷ phú, cần chỉ cho họ đâu có nhiều cá, đâu mua được cần câu tốt, từ đó họ sẽ nắm bắt ngay để "câu ngay, câu nhiều" những con cá lớn. Hơn 20 năm qua, cây lúa đã giúp nhiều nông dân ÐBSCL trở thành những "tỷ phú hai lúa". BẢO TRỊ, MINH TRƯỜNG và NHỰT TRUNG http://www.nhandan.com.vn/kinhte/chuyen-lam-an/item/20669602-l%C3%83%C6%92%C3%82%C2%A0m-gi%C3%83%C6%92%C3%82%C2%A0u-tr%C3%83%C6%92%C3%82%C2%AAn-%C3%83%E2%80%9E%C3%A2%E2%82%AC%CB%9C%C3%83%C2%A1%C3%82%C2%BA%C3%82%C2%A5t-t%C3%83%C6%92%C3%82%C2%A2y-nam-b%C3%83%C2%A1%C3%82%C2%BB%C3%A2%E2%80%9E%C2%A2.html

Làm giàu bằng cây rau má

Làm giàu bằng cây rau má (Dân Việt) - Dễ trồng và dễ tiêu thụ, cây rau má đã tạo sự đột phá lớn trong phát triển kinh tế của người dân xã Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế. Từ ngày chuyển đổi 7 sào đất trồng sắn, lạc, bắp sang trồng rau má, kinh tế của gia đình ông Nguyễn Đình Lâm (thôn Phước Yên, xã Quảng Thọ), lên như diều gặp gió. “Nhờ cây rau má mà gia đình tôi từ chỗ chạy ăn từng bữa đã có của ăn của để và xây được nhà cửa khang trang”- ông Lâm phấn khởi. Người dân thôn Phước Yên thu hoạch rau má . Với 7 sào rau má, cứ 20 - 25 ngày là gia đình ông thu hoạch được một lứa rau với gần 20 tạ, bán thu được gần 10 triệu đồng. Nhiều thời điểm, nhất là mùa mưa lũ, giá mỗi kg rau má lên tới 12.000-15.000 đồng, mỗi lứa rau gia đình ông thu nhập hơn 20 triệu đồng. “Chỉ với 7 sào rau má mà mỗi năm ít nhất gia đình tôi thu được gần 100 triệu đồng, gấp 4-5 lần so với thu nhập từ sắn, lạc và lúa trên cùng diện tích” - ông Lâm cho biết. Xã Quảng Thọ hiện có gần 35ha đất trồng rau má, tập trung ở các thôn Phước Yên và La Vân Thượng. Trong đó thôn Phước Yên có 30ha với 150 hộ dân tham gia trồng, thôn La Vân Thượng có gần 5ha với 30 hộ dân trồng. Tất cả những hộ trồng rau má trên địa bàn đều có đời sống kinh tế khá giả nhờ thu nhập cao và ổn định. Bình quân, mỗi ha rau má mỗi năm cho thu nhập từ 300 - 400 triệu đồng. Ông Trần Phụ Phú - cán bộ kỹ thuật Hợp tác xã Nông nghiệp Quảng Thọ 2, cho biết, cây rau má cho thu nhập cao, lại rất dễ trồng và ít chi phí. Người trồng rau má chỉ mua giống trồng một lần trên đất, sau đó chỉ cần bỏ công, phân bón chăm sóc rồi thu hoạch từ năm này qua năm khác, vì loại rau này tái sinh rất nhanh. “Ông tổ” của nghề trồng rau má ở Quảng Thọ là ông Cao Quảng Thiện, ở thôn Phước Yên. Năm 2000, thấy người dân nhiều nơi đi nhổ rau má ngoài đồng đưa về bán với giá cao, ông Thiện liền trồng thử loại rau này trong vườn và cho kết quả tốt nên phát triển trên diện tích lớn. Từ năm 2001, người dân Quảng Thọ học hỏi và phát triển trồng đại trà cho đến nay. Hiện rau má Quảng Thọ không chỉ “làm mưa làm gió” trên thị trường rau xanh Thừa Thiên - Huế mà còn rất được ưa chuộng ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh Hòa. Để thương hiệu rau má Quảng Thọ ngày càng có uy tín, từ năm 2010, được sự giúp sức của Trường ĐH Nông lâm Huế, người trồng rau má ở đây dần chuyển hướng sang trồng rau sạch.

Anh Tống Văn Phong Làm Giàu Từ Cây Quýt Đường

Anh Tống Văn Phong Làm Giàu Từ Cây Quýt Đường Xem trước khi in In ra giấy Nguồn: Báo Đồng Tháp, 14/09/2012 Ngày đăng tin: 24/09/2012 Sự học hỏi và lòng say mê lao động đã giúp anh Tống Văn Phong (ấp Hòa Khánh, xã Vĩnh Thới, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp) thành công với mô hình trồng cây quýt đường. Mô hình cho thu nhập cao này đã đưa gia đình anh Phong vượt qua khó khăn, vươn lên làm giàu. Nhiều năm liền anh được công nhận nông dân sản xuất kinh doanh giỏi. Nhiều năm trước, khi phong trào trồng quýt hồng trong huyện phát triển, với diện tích 3.000 m2 anh quyết định đào mương lên liếp trồng 300 cây quýt hồng. Qua 2 năm canh tác, cây phát triển tốt, tuy nhiên mỗi năm có khoảng 10% số lượng cây chết. Nguyên nhân là do lúc bấy giờ thuốc bảo vệ thực vật còn khan hiếm và nông dân chưa có kinh nghiệm trong phòng trừ sâu bệnh. Đến năm thứ 3, cây chuẩn bị cho trái thì cơn lũ năm 2000 đã làm vườn quýt hồng của anh chết gần hết, lúc đó anh gần như trắng tay. Đứng trước hoàn cảnh khó khăn, anh vừa phải chạy lo vốn đầu tư sản xuất mới vừa đắn đo nên chọn cây gì cho phù hợp với vùng đất và điều kiện sản xuất. Qua theo dõi báo đài và tham quan nhiều mô hình sản xuất, cuối cùng anh chọn cây quýt đường làm cây trồng chính để phát triển kinh tế gia đình. Trước hết, anh thiết kế lại đê bao đảm bảo chống lũ, chủ động nước tưới tiêu, khâu cải tạo đất, xử lý phân bón thuốc bảo vệ thực vật, tỉa cành tạo tán, trồng dậm và loại bỏ những cây nhiễm bệnh. Anh Tống Văn Phong cho biết: “... Để có thể thành công với cây quýt đường, tôi đã nghĩ ra cách làm riêng cho mình là sản xuất theo quy trình kỹ thuật. Trong việc tiêu thụ sản phẩm, tôi chọn thời điểm xử lý ra hoa phù hợp để cho trái nghịch mùa. Tôi cũng luôn đảm bảo uy tín với khách hàng qua việc phân loại trái. Từ đây, tôi tạo được thương hiệu riêng của mình ở các chợ đầu mối trái cây trên thành phố Hồ Chí Minh. Khi thấy thùng quýt đường thương hiệu “Tư Phong” thì khách hàng rất tin tưởng, yên tâm về chất lượng...”. Nhờ sản xuất theo quy trình kỹ thuật, sản phẩm chất lượng, uy tín, 10 năm qua, đầu ra cho quýt đường của anh luôn ổn định và lợi nhuận đạt cao. Từ 3.000 m2 ban đầu, anh đã tích lũy vốn và mua thêm đất lập vườn. Đến nay, anh có 15.000 m2 diện tích vườn trồng quýt với lợi nhuận hàng năm trên 1 tỉ đồng. Trong năm 2011, anh sản xuất được 62 tấn quýt, bán với giá 27.000 đồng/kg. Tổng doanh thu gần 1,7 tỷ đồng, sau khi trừ chi phí lợi nhuận gia đình thu được trên 1,35 tỷ đồng. Bình quân 1.000 m2 vườn trồng quýt đường cho thu nhập 90 triệu đồng. Vườn quýt của anh còn giải quyết việc làm ổn định cho hàng chục lao động, với mức lương 3 triệu đồng/tháng. Với thành công trong nghề, anh đã truyền đạt kinh nghiệm cho bà con nông dân cách sử dụng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật sao cho phù hợp để tránh lãng phí và bảo vệ tốt vườn cây, hướng dẫn cách xử lý các loại sâu bệnh trên cây trồng. Ngoài ra, anh còn nhiệt tình cho mượn cây giống, bảo lãnh mua vật tư,... Với cộng đồng, anh Tống Văn Phong tích cực tham gia công tác xã hội như vận động đóng góp xây dựng cầu, đường, cất nhà tình thương... Hiện anh Tống Văn Phong là Chủ nhiệm Câu lạc bộ Khuyến nông xã, Tổ trưởng Tổ nông dân trồng quýt đường.

Làm giàu từ hai bàn tay trắng

Làm giàu từ hai bàn tay trắng Thứ ba, 14/07/2009, 23:41 (GMT+7) Cựu chiến binh Nguyễn Văn Huệ Ngôi nhà 3 tầng đồ sộ nổi bật giữa khu đô thị mới trên đường Tân Hòa Đông, P.Bình Trị Đông Q.Bình Tân TPHCM chỉ là một trong số ít thành quả đạt được sau gần 30 năm lao động miệt mài của cựu chiến binh Nguyễn Văn Huệ (tức Ba Huệ). Năm 1980, ông Huệ xuất ngũ trở về với hai bàn tay trắng. Cha mẹ già yếu, ông và vợ con dựng một căn chòi bằng 5, 6 tấm tôn, rộng chưa đầy 6m2, ngay cạnh mảnh ruộng của cha mẹ để làm nhà. Hồi đó, cả ngày ông lội nước, cày ruộng quần quật từ tinh mơ đến tối mịt. Mấy năm đầu, ông giúp người khác làm ruộng, đến phiên ruộng của ông, người ta giúp lại. Chỉ sau 3, 4 năm, từ nỗ lực lao động và chắt bóp để dành, ông đã đủ tiền thuê nhân công làm ruộng. Hỏi ra mới biết, trước đây, dân trong vùng chỉ trồng lúa có một vụ, thu hoạch ít nên sống thiếu trước hụt sau. Chính ông Huệ là người đầu tiên thử trồng lúa 2 vụ và đã bội thu, nên nhiều người cũng làm theo ông. Ông còn trồng thêm bầu, bí, bắp vào mùa khô, khi không trồng lúa được. “Hồi đi bộ đội thấy đồng đội làm, rồi đọc báo biết thêm nên mình làm theo!” - ông nói. Ông Ba Huệ cho biết, trước khi đi bộ đội, ông học chưa hết lớp 2. Suốt 20 năm quân ngũ, ông đã học chữ, học toán, học thêm nhiều kiến thức từ đồng đội và điều đó đã góp phần thay đổi cuộc đời ông… Dư chút đỉnh sau một năm trồng lúa, ông mua cá giống về nuôi trong cái ao mới được vét đáy, be bờ. Ông mua đầu, đuôi tôm giá rẻ từ xưởng tôm đông lạnh gần đó, chạy xe ba gác ra chợ chở rau, cải người ta bỏ về để nuôi cá. Nhớ nhất là những đêm mưa phải be bờ, ông kể: “Cực lắm, 10 giờ đêm một mình tui hì hụi đắp bờ dưới mưa, có khi làm đến sáng mới xong”. Những hôm không be bờ thì ông phải thức trắng đêm canh phòng kẻ gian câu trộm, nên giấc ngủ hiếm khi trọn vẹn. Tuy cực nhưng nhờ vậy mà ngay trong năm đầu tiên, ông đã thu về được 5 tấn cá, những năm sau thu hoạch trung bình 7 - 8 tấn, có khi hơn 10 tấn. Chưa dừng lại ở đó, ông Ba Huệ còn “học lỏm” người hàng xóm chuyên trui, dập những bộ phận xe máy, xe đạp, rồi dùng tiền lời bán lúa, cá, hoa màu mở xưởng riêng. Xưởng của ông lúc đó có gần 10 nhân công, mỗi tháng thu về trên 1 cây vàng, nhưng do xưởng gây ô nhiễm môi trường sống của bà con nên ông đóng cửa. Cũng nhờ kinh nghiệm mở xưởng mà ông đã biết cách cải tiến máy móc để trồng trọt, như máy xới đất mua về không hợp với đất cỏ, sình lầy, ông tự mày mò “chế” lại bánh, làm lại máy cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao. Mang “tham vọng” mở rộng cơ ngơi, ông bán bớt đất ở TP, rồi hùn vốn với một người bạn, mua hơn 8 ha đất ở Đức Hòa (Long An) làm trang trại. Trang trại với gần 30 nhân viên, nuôi hơn 1.000 cặp bồ câu, chuyên cung cấp cho các nhà hàng, một đàn gần 200 con dê và cả ngỗng, gà, vịt xiêm, bò lẫn chó béc-giê. “Thấy người ta nuôi con gì thì tui về nuôi con đó!” - ông hồn nhiên nói. Nhưng dịch cúm gia cầm và lở mồm long móng đã hủy hoại dần đàn heo, gà, vịt của ông… Tuy nhiên, ông Ba Huệ chưa bao giờ xem đó là thất bại thực sự mà chỉ là tổn thất… chút đỉnh, vì cựu chiến binh 70 tuổi này, vẫn còn rất nhiều dự định. Gần 30 năm vất vả, giờ đã có con cháu đỡ đần, kinh tế sung túc, ông Ba Huệ vẫn chăm chỉ nuôi cá, trồng mít, bạc hà, mướp… Ông nói: “Tui quen cái tánh rồi, không làm chịu không được. Ông bà mình nói “chết không bỏ nết” mà. Đó là cái nết cần cù của người lính làm kinh tế”

Làm giàu nhờ trồng ớt chỉ thiên

Làm giàu nhờ trồng ớt chỉ thiên Thứ sáu, 16/05/2008, 14:02 GMT+7 Ông Võ Văn Bé, còn gọi là Hai Bé, 54 tuổi, ở ấp Tân Thạnh, thị trấn Long Bình, huyện An Phú, An Giang là người khởi xướng cây ớt chỉ thiên ở địa phương này. Hiện nay ông đã có 1,5 ha trồng ớt chuyên canh, mỗi vụ lãi trên dưới 200 triệu đồng. Ớt chỉ thiên ít bị sâu bệnh, chịu hạn tốt, công chăm sóc. Chỉ cần chú ý khâu thu hoạch: nếu không hái kịp ớt sẽ bị úng, bán mất giá (vừa ửng chín là thu hoạch). Các thương lái ở Campuchia vào tận ruộng mua ớt. Năm nay, đám ớt của ông Hai Bé cho năng suất trung bình 3 - 3,5 tấn/công/vụ, tăng hơn năm ngoái khoảng 500 kg/công bán cho lái 9.000 - 10.000 đồng/kg. Năm 1989, Hai Bé được cha mẹ cho 2 công ruộng làm lúa, trong một lần đi đám giỗ thấy có người trồng loại ớt có trái hướng lên trời, ăn rất cay và có vị thơm, ông xin về làm giống rồi trồng trên 10.000 cây, năm đầu thu lợi trên dưới 6 triệu đồng. Sau đó ông đầu tư trên 10 triệu đồng... Với 15 năm kinh nghiệm trồng ớt, ông cho biết: Trồng cây ớt chỉ thiên cho thu hoạch kéo dài, luân phiên cách nhau một tuần lễ; thu hoạch xong, phải tưới nước, rải phân cho vun thành một lớp đất mỏng, để tạo độ ẩm cho bộ rễ phát triển; làm như vậy, cây ớt không bị mất sức. Hiện nay ông đã có trong tay 1,5 ha chuyên canh ớt chỉ thiên, mỗi năm trồng hai vụ, trung bình mỗi vụ lãi ròng trên dưới 200 triệu đồng. Từ cây ớt, ông đã xây được căn nhà khang trang, mua xe tải nhỏ chở ớt chỉ thiên thu mua của những hộ lân cận để tập kết đem bán cho lái Campuchia. Theo phòng nông nghiệp - phát triển nông thôn huyện An Phú, hiện nay huyện có chủ chương khuyến khích nông dân trồng màu, chủ yếu là cây ớt chỉ thiên, vì đất bãi bồi ở đây rất thuận lợi. Ớt chỉ thiên hiện đang có giá rất cao, tiêu thụ mạnh sang Campuchia và TP.HCM (trung bình mỗi ngày xuất qua biên giới hơn 10 tấn). Hiện nay, toàn huyện có trên dưới 100 hecta trồng ớt chỉ thiên, dự kiến năm tới sẽ mở rộng lên khoảng 150 hecta. v http://www.khoahocphothong.com.vn/news/detail/3052/lam-giau-nho-trong-ot-chi-thien.html

Cây chùm ngây nguồn dược liệu quý hiếm

Cây chùm ngây nguồn dược liệu quý hiếm Cây chùm ngây - nguồn dược liệu quý hiếm 31/07/2011 Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree", cây vừa là nguồn dược liệu vừa là nguồn thực phẩm phong phú và quí hiếm, lá, hoa, trái, thân, vỏ, rễ của cây chứa chất khoáng, chất đạm, vitamins, beta-carotene, acid amin và nhiều hợp chất khác. Theo lương y Nguyễn Công Đức - giảng viên khoa Y học cổ truyền (ĐH Y Dược, TP.HCM), Chùm ngây đã được biết đến và dùng nhiều hơn nghìn năm nay ở các nước có nền văn minh cổ như Hy Lạp, Ý, Ấn Độ. Do có nhiều hữu ích, nên hiện nay đang có chương trình khuyến khích trồng cây chùm ngây ở 80 quốc gia trên thế giới. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, lá còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao Lá cây chùm ngây (sưu tầm) 1.2. Hoa chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. Hoa chùm ngây (sưu tầm) 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". Quả chùm ngây (sưu tầm) Hạt chùm ngây để khô 1.4. Các đoạn rễ non cũng được dùng làm rau Rễ cây chùm ngây để khô 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. Trong hoa và rễ cây moringa có chất pterygospermin là một trụ sinh (antibiotic) rất mạnh, ăn thường xuyên sẽ giảm được nhiễm trùng do tạp khuẩn của môi trường. Cây chùm ngây cung cấp những hợp chất quý hiếm như zeatin, quercetin, alpha-sitosterol, caffeoylquinic acid và kaempferol. Lá và hoa đã được dùng để chữa nhiều bệnh như cảm cúm, bao tử, gan, tiểu đường, tim. Trong y học cổ truyền, sử dụng chùm ngây chữa u xơ tuyến tiền liệt, huyết áp cao, tăng mỡ máu... 2.1. Lá, hoa và rễ: được dùng trong y học cộng đồng, chữa trị các khối u. - Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. - Vỏ, lá và rễ được dùng tăng cường tiêu hóa. Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; còn hạt dùng trị trướng bụng. 2.2. Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 2.3. Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. 2.6. Làm thuốc ngừa thai: trong các tài liệu có nói đến phụ nữ dân tộc Raglay ngừa thai bằng cách cứ khoảng năm ngày thì lấy hai nắm rễ chùm ngây còn tươi (chừng 150gam), rửa sạch, xắt nhỏ, sắc giống sắc thuốc nam, uống hai lần trong ngày. Trong chùm ngây có alpha-sitosterol cấu trúc giống estrogen nên có thể có tác dụng ngừa thai. Khi bạn có thai, hormon thai nghén là progesterone bài tiết làm mềm tử cung khiến cơ tử cung không co bóp. Còn alpha-sitosterol trong rau chùm ngây gây co cơ trơn tử cung và làm sẩy thai. Vì thế các nhà khoa học nhắc nhở “phụ nữ có thai không được ăn rau chùm ngây”. 2.7. Một số cách dùng chùm ngây trị bệnh theo hướng dẫn của lương y Nguyễn Công Đức - giảng viên khoa Y học cổ truyền (ĐH Y Dược,TP.HCM): + Trị u xơ tiền liệt tuyến: dùng 100gr rễ chùm ngây tươi và 80gr lá trinh nữ hoàng cung tươi (hoặc dùng rễ chùm ngây khô 30gr và lá trinh nữ hoàng cung khô 20gr). Đem nấu với 2 lít nước, nấu còn lại nửa lít thuốc. Uống ấm 3 lần trong ngày. + Trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường huyết, bảo vệ gan: mỗi ngày dùng 150gr lá chùm ngây non rửa sạch, giã nát, thêm 300ml nước sạch vắt lấy nước cốt (hoặc dùng máy xay sinh tố), thêm 2 muỗng canh mật ong trộn đều, chia uống 3 lần dùng trong ngày. + Trị tăng cholesterol, tăng lipid máu, tăng triglycerid, hoặc làm giảm acid uric, ngăn ngừa sỏi oxalate: mỗi ngày dùng 100gr rễ chùm ngây tươi (hoặc 30gr khô) rửa sạch, nấu với 1 lít nước, nấu sôi 15 phút, để uống cả ngày. + Ngừa thai: cứ 5 ngày thì dùng 2 nắm rễ cây chùm ngây còn tươi (150gr) rửa sạch băm nhỏ nấu với 2 lít nước, nấu còn nửa lít thuốc, chia uống 2 lần trong ngày. + Chùm ngây còn được dùng để lọc nước - bằng cách lấy 2 trái chùm ngây tươi đã có hột già, lấy hột giã nát, trộn đều 5 phút với 3 lít nước đục, để lắng 2 giờ thì có nước trong dùng được. 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày, Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp, Polyporus gilvus. http://trachumngaygood.blogspot.com/2011/10/cay-chum-ngay-nguon-duoc-lieu-quy-hiem_4.html

Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Trồng gừng trong bao

Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Trồng gừng trong bao Đó là cách trồng gừng độc đáo đem lại hiệu quả kinh tế cao, khắc phục được những bất lợi của thời tiết, đất đai... Tốn khá nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, thử nghiệm, ông Phạm Huynh ở xã Nghĩa Kỳ, huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) cuối cùng đã tìm ra cách trồng gừng mới lạ được nhiều nông dân học hỏi và làm theo. Ông Huynh kể: "Khi xuống giống thử nghiệm lứa gừng đầu tiên trong bao vào đầu năm 2005, tôi giấu kín mọi người vì chưa biết có ra ngô, ra khoai gì không, nhưng thật bất ngờ, chỉ sau 2 tháng, gừng phát triển khá nhanh, bằng cả gừng trồng ngoài đất đã trồng được 4 tháng". Từ thành công này, năm 2006, ông Huynh bắt đầu làm ăn lớn và trúng đậm hơn 8 tấn gừng tươi. Thấy vậy, mọi người kháo nhau khắp nơi, ông Huynh trở thành người "thầy" bất đắc dĩ. Đi riêng lẻ từng người có, đi cả đoàn cũng có, từ ngoài Bắc vào, trong Nam ra, rất nhiều nông dân tìm đến tham quan, nhờ ông hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc. Nhiều địa phương ở các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Bình Định mời ông về mở lớp dạy cách trồng cho nông dân. Cách trồng của ông Huynh về cơ bản gồm: dùng vỏ bao xi măng giặt sạch, đáy bao đục 6 lỗ; dùng trấu, đất, phân trộn đều theo tỷ lệ 4 trấu + 1 đất + 1 phân chuồng hoai mục, sau đó cho vào bao. Củ gừng giống sau khi ủ lên mầm được cấy vào bao. Chăm sóc thì chỉ cần tưới nước và bón thêm 2 lần phân. "Lần đầu, cách thời gian trồng từ 30 đến 45 ngày. Mỗi bao gừng bón 1 thìa phân NPK quanh gốc. Sau đó cho thêm vào một lớp hỗn hợp chất hữu cơ dày khoảng 20 cm với tỷ lệ 1 phân chuồng hoai mục + 1 đất + 3 trấu. Lần 2, cách thời gian bón lần một 60 ngày. Mỗi bao bón thêm 1 thìa phân NPK quanh gốc. Sau đó cho thêm vào bao một hỗn hợp chất hữu cơ với tỷ lệ 1 phân chuồng hoai mục + 1 đất + 4 trấu. Việc phòng trừ sâu bệnh cho gừng cũng đơn giản, bao nào bị sâu bệnh dễ dàng đem ra cách ly, không để lây lan", ông Huynh nói. Với sáng kiến này, ông Huynh trở thành "sao nhà nông" và là gương điển hình sản xuất giỏi của tỉnh Quảng Ngãi. Giải pháp trồng gừng trong bao của ông cũng đã qua mặt hàng trăm giải pháp khác để lọt vào vòng chung kết và đạt giải khuyến khích trong hội thi "Giải thưởng sáng tạo kỹ thuật Việt Nam - VIFOTEC năm 2007". "Cái hay của cách trồng này là từ miền núi, hải đảo hay đô thị đều trồng được cả. Bao gừng đặt dưới tán cây, hay ven lối đi cứ chỗ nào đất không dùng cho sản xuất", ông Huynh nói. Bên cạnh đó là ưu điểm dễ di chuyển khi cần thiết, tránh được bất lợi của thời tiết. Thường thì mỗi củ gừng giống khi trồng chỉ nảy từ 3 - 4 nhánh con, nhưng với cách trồng trong bao, gừng nảy rất nhiều nhánh. Mỗi nhánh là một củ gừng, sau 7 - 8 tháng có thể thu hoạch từ 1,5 đến 2 kg củ/bao. Tổng chi phí đầu tư ban đầu cho một bao gừng chưa đến 2.000 đồng, thu được 15.000 đồng. Tính ra hiệu quả trồng gừng trong bao cao gấp 8 lần so với cách trồng thông thường. Hiển Cừ http://www.hungphatea.com/vn/Tin-Tuc/Tin-Moi/Lam-Giau-Nho-Trong-Cay-Hiem-Trong-Gung-Trong-Bao/

Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Trồng chùm ngây ở miền Tây

Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Trồng chùm ngây ở miền Tây Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Trồng chùm ngây ở miền Tây Làm giàu nhờ trồng cây hiếm: Trồng chùm ngây ở miền Tây Hạt, lá, thân, rễ chùm ngây đều có giá rất cao, bảo đảm thu nhập cho nông dân - Ảnh: T.Dũng Thích nghi với vùng đất núi, dễ trồng, thu nhập cao gấp 3 lần trồng lúa nên người dân Bảy Núi (An Giang) rất phấn khởi với dự án phát triển “cây xóa nghèo” chùm ngây. Chùm ngây có tên khoa học là Moringa oleifera, mọc hoang dại rất nhiều trên các đồi núi ở Tịnh Biên, Tri Tôn (An Giang). Người dân Bảy Núi trước kia chưa hiểu rõ dược tính của chùm ngây nên chỉ dùng chúng vào việc lọc cho nước trong hay dùng làm hàng rào, lấy lá chùm ngây làm rau ăn. Tới khi biết đó là “cây thần diệu” (Thanh Niên đã có các bài viết về tác dụng tuyệt vời của loại cây này đối với sức khỏe) người dân mới tiếc ngẩn ngơ bởi chùm ngây đã gần như bị tuyệt chủng trên Bảy Núi. Mãi cho đến tháng 2.2009, khi kiểm tra các đồi núi An Giang, ngành kiểm lâm rất ngạc nhiên khi phát hiện vài cá thể chùm ngây mọc ở nơi cheo leo hoang vắng. Sự phát hiện này đã mở hướng cho huyện Tri Tôn và Tịnh Biên quy hoạch vùng trồng loại cây này. Ông Trần Văn Mì, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Tri Tôn cho biết, ở khu vực ĐBSCL chỉ có vùng Bảy Núi với khí hậu khô hạn khắc nghiệt là nơi lý tưởng trồng chùm ngây. Hiện huyện Tri Tôn đang thực hiện đề tài: "Bảo tồn, phát triển sản xuất và hướng tới chế biến, tiêu thụ sản phẩm cây chùm ngây". Đây là dự án xóa nghèo, nhằm cải thiện cuộc sống đồng bào dân tộc Khmer và người trồng rừng phòng hộ khu vực Bảy Núi. Kinh phí cho dự án hơn 1 tỉ đồng, thực hiện trong 3 năm. Theo ông Mì, ước tính dự án sẽ giải quyết việc làm cho khoảng 300 hộ nông dân và trên 1.000 lao động nông nhàn. Ông Mì cũng cho biết cây chùm ngây dễ trồng, ít tốn phân bón và công chăm sóc, chúng hầu như “miễn dịch” với sâu bọ. Vì thuộc họ cây cổ thụ nên tuổi thọ của chùm ngây kéo dài. Người dân có thể trồng chùm ngây xen kẽ dưới tán rừng, khi cây cao được 1,5 mét thì cắt cành, ngay chỗ cắt sẽ đâm ra nhiều tược, khi tược cao lại cắt ngang lúc đó cây sẽ đâm tược theo cấp số nhân. Chùm ngây trồng khoảng 6 - 8 tháng là có thể thu hoạch được lá hoặc hạt. Tại Tri Tôn hạt chùm ngây được thu mua với giá 50.000 - 60.000 đồng/kg, lá non 25.000 đồng/kg, cây giống 15.000 đồng/cây. Để chủ động nguồn giống hiện nay Phòng Nông nghiệp huyện đang triển khai diện tích chuyên trồng chùm ngây từ 100 - 200 ha tại khu vực Núi Dài và Núi Cô Tô, xây dựng một vườn ươm cây diện tích khoảng 3.000m2 nhằm cung cấp giống cho vùng nguyên liệu. Theo lương y Nguyễn Thiện Chung (ấp Núi Đá Lớn, xã An Phú, Tịnh Biên), giá chùm ngây trên thị trường rất cao, cụ thể hạt từ 100 ngàn đồng/kg trở lên, có nơi bán 1 hạt chùm ngây từ 1.500 - 2.000 đồng, lá non 1 kg từ 50.000 - 70.000 đồng, cây giống từ 30.000 - 50.000 đồng/cây. Cá nhân ông Chung cũng trồng chùm ngây xen kẽ dưới tán rừng tăng thêm nguồn kinh tế. Ông tính toán 1 công đất chùm ngây cho thu hoạch cao gấp 2 - 3 lần trồng lúa, trong khi việc chăm sóc lại nhàn hạ hơn. “Toàn thân cây chùm ngây là cây thuốc nên luôn được các công ty chế biến dược phẩm quan tâm. Nhiều công ty ở Nhật cũng từng đề nghị tôi trồng các loại thuốc núi, trong đó có chùm ngây cung ứng cho họ với số lượng lớn nhưng tôi chưa dám nhận lời vì sợ không đủ sức”, ông Chung chia sẻ. Thanh Dũng Nguồn:http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/200925/20090617235023.aspx

Phân hữu cơ

Phân hữu cơ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bước tới: menu, tìm kiếm Bài này chỉ viết về phân hữu cơ, các từ liên quan đến phân bón xem tại phân bón (định hướng) Phân động vật thường được trộn với rơm rạ khô để làm phân bón. Phân hữu cơ là hợp chất hữu cơ dùng làm trong nông nghiệp, hình thành từ phân người, phân động vật, lá và cành cây, than bùn, hay các chất hữu cơ khác thải loại từ nhà bếp. Phân bón giúp tăng thêm độ màu mỡ cho đất bằng cách cung cấp thêm các chất hữu cơ và bổ dưỡng. Mục lục 1 Hình thành 1.1 Chế biến phân hữu cơ 1.1.1 Kỹ thuật ủ nổi 1.1.2 Kỹ thuật ủ chìm 1.1.3 Kỹ thuật ủ phân xanh 1.2 Ủ hoai mục 1.2.1 Ủ nóng 1.2.2 Ủ nguội 1.3 Sản xuất phân ủ tại hộ gia đình 1.3.1 Sản xuất đất men 1.3.2 Sản xuất phân ủ 1.3.3 Cách sử dụng phân ủ 1.4 Sản xuất phân xanh từ cây lục bình ở hộ gia đình 2 Gom phân làm phân bón 3 Chú thích Hình thành Phân để lâu ngày trong tự nhiên có thể thành phân bón cho cây, cho cá. Người ta có thể chế biến phân hữu cơ hoặc ủ hoai mục phân, cây xanh để thành phân hoặc sản xuất phân ủ.[1][2][3] Chế biến phân hữu cơ Phân hữu cơ (phân chuồng, phân bắc, phân xanh) hoai mục cho cây trồng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho con người và hạn chế được sự lây lan của một số bệnh hại nguy hiểm qua tàn dư thực vật. Phân hữu cơ được ủ theo 2 phương pháp: Kỹ thuật ủ nổi Đối với phân chuồng, phân bắc, tốt nhất là ủ kết hợp với 1 trong 3 loại phân sau: Super lân Lâm Thao hoặc phân vi sinh Sông Gianh (tỷ lệ 2-3%), hoặc chế phẩm EM thứ cấp (tỷ lệ 1-1,5 lít dung dịch nồng độ 1-5% tưới cho 1-2 tạ phân chuồng), có bổ sung thêm chế phẩm Penac P (gói màu vàng, 1-2 gói/tấn phân, có tác dụng kích thích vi sinh vật có ích phát triển, hạn chế vi sinh vật có hại). Trộn đều các loại phân với nhau, chất thành đống có độ cao 1,5-2m, đường kính tuỳ số lượng phân đem ủ. Nén chặt, trát một lớp bùn nhão kín toàn bộ đống phân, trên đỉnh đống phân để chừa một lỗ hình tròn có đường kính 20–25 cm để đổ nước tiểu, nước phân bổ sung (15-20 ngày/lần), làm mái che mưa cho đống phân ủ. Sau 40-50 ngày (vụ hè) hoặc 50-60 ngày (vụ đông) đống phân chuồng hoàn toàn hoai mục, phân tơi xốp, không có mùi hôi thối, đem bón cho cây trồng rất tốt. Kỹ thuật ủ chìm Chọn đất nơi cao ráo, đào hố ủ sâu: 1,0-1,5m, đường kính hố ủ: 1,5-3m (tuỳ lượng phân cần ủ). Đáy và phần chìm của hố ủ được lót bằng nilon hay lá chuối tươi để chống nước ngầm xâm nhập hoặc nước phân chảy đi, rồi tiến hành ủ phân chuồng, phân bắc, phân xanh vào hố đã chuẩn bị, như đã trình bày ở phần trên. Kỹ thuật ủ phân xanh Cần có phân men là phân chuồng tươi (tỷ lệ 15-20%)+ phân vi sinh Sông Gianh hoặc supe lân (tỷ lệ 3-5%), có bổ sung thêm chế phẩm EM, Penac P (tỷ lệ như phần trên). Thân lá cây xanh được chặt ngắn thành đoạn dài 30–40 cm, chất thành từng lớp dày 0,5-0,6m lại rắc một lớp phân men, tưới thêm nước dải, nước phân chuồng đảm bảo độ ẩm đống phân 75-80%, nén chặt. Sau đó trát kín toàn bộ đống phân bằng một lớp bùn nhão, để lỗ tưới nước ở đỉnh đống phân, cứ khoảng 15-20 ngày lại tưới bổ sung nước để duy trì độ ẩm sau đó trát kín lại. Khoảng 35-40 ngày sau ủ, ta tiến hành đảo đều đống phân, bổ sung nước cho đủ ẩm, lại nén chặt, trát bùn kín, sau khoảng 25-30 ngày là phân hoàn toàn hoai mục, sử dụng được. Ủ hoai mục Ủ hoai mục là phương pháp chuyển phân từ trạng thái hữu cơ thành vô cơ cây mới hấp thụ được. Phân trước khi mang ủ là các chất hữu cơ nếu bón cho cây thì cây khó hấp thụ mà trong phân mang mầm bệnh, cỏ dại cây sẽ dễ bị nhiễm bệnh. Nếu được ủ hoai mục các chất hữu cơ sẽ phân huỷ và chuyển thành dạng vô cơ khi đó phân sẽ "sạch" hơn. Có 2 phương pháp ủ phân Ủ nóng Với dạng phân ít chất xơ như phân lợn phân trâu bò nên ủ theo phương pháp ủ nóng: Trộn đều phân với lân hoặc vôi, vun thánh đống cao 0,5 – 0,6 m to chừng 0,8 – 1m sau đó dùng xẻng nén phân và dùng rơm rạ phủ lên trên Ủ nguội Với phân nhiều chất xơ nên dùng phương pháp ủ nguội: Rải một lớp phân 10 – 15 cm rắc một lớp lân hoặc vôi bột nén chặt đống phân rồi trát một lớp bùn dày 1 – 2 cm chỉ chừa một lỗ ở đỉnh. Ủ 3- 4 tháng hoai là dùng được. Sản xuất phân ủ tại hộ gia đình Sử dụng các loại phân bón hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, phân ủ thay thế một phần phân hóa học để bón cho cây trồng, vừa giúp tăng năng suất cây trồng, đồng thời góp phần cải tạo đất, giải quyết được vấn đề rác thải sinh hoạt, bảo vệ được môi trường sinh thái rất tốt. Sản xuất phân ủ tại chỗ sẽ tận dụng được nguồn nguyên vật liệu rẻ tiền của địa phương, giảm được chi phí trong sản xuất nông nghiệp. Sản xuất phân ủ gồm có 2 giai đoạn: Sản xuất đất men và sau đó sử dụng đất men để sản xuất phân ủ. Sản xuất đất men Để sản xuất 1 tấn đất men cần chuẩn bị một số nguyên liệu theo tỷ lệ sau: 50 kg vi khuẩn gốc. Vi khuẩn gốc là những vi sinh vật có ích có khả năng phân giải các phế thải động, thực vật thành mùn. Vi kuẩn gốc có thể liên hệ mua tại phòng thí nghiệm phân bón vi sinh, Trường Đại học Khoa học tự nhiên Hà Nội (đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội), 10 kg cám gạo, 900 kg đất khô đập nhỏ hoặc than bùn. Để sản xuất 1 tấn đất men cần bổ sung 3 kg đường và đủ nước để tạo độ ẩm 25-30%. Trộn đều các nguyên liệu nói trên với vi khuẩn gốc, cám gạo, đất khô. Đối với đường thì hòa tan trong nước, rải đều vào hỗn hợp và đảo đều thành nhiều lớp, nhiều lần. Đường và cám là những chất dinh dưỡng để nuôi sống vi sinh vật; cung cấp nước nhằm tạo đủ độ ẩm thuận lợi để vi sinh vật tồn tại và phát triển. Để kiểm tra độ ẩm đạt khoảng 25-30% làm như sau: Lấy một nắm hỗn hợp nắm chặt tay, khi thả ra mà hỗn hợp vẫn giữ được nguyên hình của nó, nhưng nếu đụng nhẹ vào thì tơi ra là độ ẩm đạt yêu cầu. Sau khi trộn đều dùng nilon phủ kín đống ủ trong vòng 48 giờ. Trong thời gian này cần đảo đống ủ 2-3 lần để cung cấp ôxy và tưới thêm nước, nhằm giúp vi sinh vật hoạt động, sinh sôi nảy nở. Sau 48 giờ ủ, người ta được sản phẩm đất men. Quá trình sản xuất đất men được hiểu như quá trình nhân giống vi sinh vật dùng để sản xuất phân ủ cho bước tiếp theo. Sản xuất phân ủ Khác với làm đất men, sản xuất phân ủ cần có các nguyên liệu như: Đất men, phế thải thực vật, cám gạo, phân gia súc. Để sản xuất 1 tấn phân ủ cần các nguyên liệu kể trên với khối lượng và tỷ lệ như sau: 50 kg đất men, 600 kg phế thải thực vật, 250 kg phân gia súc, 60 kg cám gạo. Ngoài ra cũng cần bổ sung thêm 3 kg đường được hòa tan vào nước để tạo độ ẩm 30-35%. Cũng giống như quá trình làm đất men ta tiến hành trộn đều đất men, cám gạo, lá cây khô hoặc có thể sử dụng lá rau già, hoa quả hư thối cũng được. Sau đó tiếp tục bổ sung phân gia súc vào và rắc đường đã được hòa tan trong nước. Đảo đều và dùng bao tải nilon phủ kín. Quá trình tạo phân ủ kéo dài khoảng 2 tháng. Trong quá trình ủ phải đảo thường xuyên, khoảng 1 tuần/lần để bổ sung thêm oxy và nước cho các vi sinh vật trong đống ủ tồn tại và phát triển. Nên bố trí ủ phân nơi cao ráo gần nơi trồng trọt để đỡ công vận chuyển và tiện sử dụng, tránh được mùi hôi trong quá trình phân ủ đang phân giải. Cách sử dụng phân ủ Loại phân ủ này dùng bón cho các cây trồng rất tốt vì có đầy đủ chất dinh dưỡng có tỷ lệ C/N cân đối, hợp lý từ 20 đến 25%. Cũng có thể phối trộn thêm lượng lân, kali theo yêu cầu của từng loại cây trồng để bón lót hoặc bón thúc cho rau, màu, cây ăn quả đều rất tốt, cho hiệu quả cao. Sản xuất phân xanh từ cây lục bình ở hộ gia đình Phân bón từ lục bình dễ làm và thường được áp dụng ở quy mô hộ gia đình. Cách ủ phân hữu cơ với nấm Trichoderma: nguyên liệu gồm rơm, cỏ, lục bình, lá cây, các chất thải hữu cơ khác...và phân chuồng hoai (đã mất mùi hôi). Phân hữu cơ gom thành đống: đáy 2x2m, cao 1-1,5m ; tưới nước vừa đủ ẩm (nắm chặt vừa rịn nước), dùng chân đạp cho đống hữu cơ nén dẻ xuống. Chủng nấm Trichoderma với liều lượng khoảng 1 kg/m3, sau đó dùng bạt ni lông đậy kín lại để giữ ẩm và tưới nước bổ sung hàng tuần. Khoảng 3 tuần giở bạt và đảo ngược đống ủ, đậy kín lại. Trung bình thì ủ từ 1,5 - 2 tháng là có thể sử dụng được. Mỗi đống phân ủ có thể bón cho khoảng 10-20 cây ăn trái trưởng thành. Ngoài ra, khi ủ có thể bổ sung thêm 1% vôi hay 1,5% lân để làm giúp hữu cơ phân hủy nhanh, rút ngắn thời gian ủ. [4] Gom phân làm phân bón Ở Việt Nam, việc hốt phân làm phân đã có từ xa xưa, thời phong kiến vua Lê Thánh Tông đã ban cho câu đối ngày tết cho một người làm nghề hốt phân: Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự Đề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm. Tạm dịch như sau: Khoác một áo bào, đảm đương việc khó trong thế gian Cầu ba thước kiếm, tận thu lòng dạ của thiên hạ Thời Pháp thuộc nhân viên Sở Thùng thường xuyên đi gom phân từng nhà, (khu phố cổ Hà Nội vẫn còn loại hố xí này) đem về làm phân bắc. http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A2n_h%E1%BB%AFu_c%C6%A1

Sản xuất nấm rơm từ giá thể lục bình

Sản xuất nấm rơm từ giá thể lục bình Thứ Năm, 17/09/2009 00:45 Năng suất nấm cao gấp 4 lần so với trồng trên rơm, rạ bởi rễ lục bình có đến 16 dưỡng chất cần thiết cung cấp cho cây trồng Một nông dân ở xã Bình Phong Thạnh, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An thường được gọi với cái tên gần gũi là ông Hai Thủy, có nghề trồng nấm rơm, tình cờ ông làm rơi một ít meo nấm lên trên đám lục bình khô được kéo lên bờ kênh thì một thời gian sau thấy nấm rơm mọc lên từ đám lục bình này và rất nhanh, nấm khá lớn. Từ đó, ông tìm cách thử dùng gốc, rễ, thân, lá lục bình để trồng nấm rơm và đã thành công. Kiểm tra nấm trồng trên giá thể lục bình. Năng suất cao gấp 4 “Dùng giá thể lục bình để trồng nấm rơm là phát hiện rất mới”. kỹ sư Phan Phùng Sanh (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật TPHCM) cho biết như vậy sau khi chứng kiến tận mắt kỹ thuật trồng nấm của ông Hai Thủy. Theo kỹ sư Phan Phùng Sanh, toàn bộ gốc, rễ, lá, thân lục bình phế liệu dùng làm giá thể để trồng nấm rơm rất tốt bởi giữ được độ ẩm lâu, giảm công tưới, tốn ít meo nấm hơn, chất lượng nấm ngon hơn, giòn hơn so với trồng nấm rơm truyền thống, lại giàu dinh dưỡng, không độc tố... Qua thực tế trồng nấm trên giá thể lục bình cho thấy năng suất nấm cao gấp 4 lần trồng trên rơm, rạ bởi rễ lục bình có đến 16 dưỡng chất cần thiết cung cấp cho cây trồng. Kỹ sư Sanh khuyên các nhà nông hãy bắt tay làm thử, chắc chắn sẽ thu hút và giúp ích cho nhiều nhà nông khác làm theo, góp phần xóa đói, giảm nghèo... vì lục bình có sẵn ở nông thôn, chỉ tốn công vớt, băm bèo... và một ít tiền mua meo nấm. Trong khi đó, bã lục bình sau khi thu hoạch nấm sẽ thành phân hữu cơ, dùng để bón cho các loại cây trồng, giảm phân hóa học, làm tơi xốp đất... tạo được trái cây sạch do không có dư lượng phân hóa học. Ngoài ra, bã lục bình còn có thể sản xuất phân hữu cơ vi sinh vô cùng cần thiết cho nhà nông. Nấm rơm phát triển trên giá thể lục bình Cách trồng đơn giản Vấn đề đặt ra là cần chọn giống lục bình tốt, hình thành các vùng nguyên liệu lục bình bền vững do các hợp tác xã quản lý. Lục bình phải đạt chuẩn, theo đó phải có cọng dài (cỡ 60 – 70 cm), dẻo, bền, sản lượng cao. Phải tổ chức quy trình canh tác và thu hoạch lục bình một cách khoa học, bảo đảm liên tục có nguyên liệu tốt, đủ thời gian cho lục bình tái tạo, đồng thời thu dọn gốc, rễ, lá, cọng ngắn của lục bình đã thoái hóa để dùng vào nhiều việc khác. Qua nghiên cứu thực tế, kỹ sư Phan Phùng Sanh giới thiệu cách trồng nấm trên giá thể lục bình như sau: gốc, rễ, thân, lá lục bình... đem băm nhỏ có độ dài khoảng 2 – 3 cm, rải thành luống rộng khoảng 1,5 m, chiều dài luống tùy ý nhưng độ dày khoảng 20 – 30 cm. Sau 15 ngày, giá thể đã khô héo là có thể rắc meo nấm rơm rồi dùng lục bình băm nhỏ hơn phủ một lớp mỏng lên trên sau khi đã gieo meo nấm... Nếu giá thể lục bình còn độ ẩm thì không cần tưới nước. Mùa nắng dùng vòi sen tưới mỗi ngày một lần cho đến khi gần thu hoạch thì ngưng. Sau khi thu hoạch nấm lần thứ nhất, cần đảo trộn và có thể bổ sung khoảng 1/4 giá thể mới... tiếp tục rắc meo nấm lần thứ hai. http://suckhoedinhduong.nld.com.vn/20090916105454899p0c1038/san-xuat-nam-rom-tu-gia-the-luc-binh.htm

Kỹ thuật trồng xoài nghịch vụ 21.11.2010

Kỹ thuật trồng xoài nghịch vụ 21.11.2010

Kỹ thuật xử lý mít Thái siêu sớm ra hoa đúng vụ

Kỹ thuật xử lý mít Thái siêu sớm ra hoa đúng vụ